Translate

Libellés

dimanche 4 novembre 2018

Những vế đối hay chưa có người đối.

tt

Như đã hứa, kính gửi quý anh chị bài sưu tầm về những câu đối hay, đa số chưa có người nghỉ ra cách đối lại.
Nếu quý anh chị có cảm hứng thì xin mời đối tác.
Caroline Thanh Hương

  • Dưới đây là bảng kê một loạt những vế đối khác về chữ thì chuẩn còn ngữ nghĩa có cái đạt cái chưa để tham khảo:
vế đối 1: Tóc đen xông phát hắc (khuyết danh)
vế đối 2: Quạ vàng đội kim ô (khuyết danh)
vế đối 3: Tay tơ sờ tí ti (khuyết danh)
vế đối 4: Nhà vàng ngồi đường hoàng (khuyết danh)
vế đối 5: Áo vàng mặc trang hoàng (khuyết danh)
vế đối 6: Đêm đen sờ dạ thâm (khuyết danh)
vế đối 7: Đêm đen nhìn tối thui (khuyết danh)
vế đối 8: Mây đen quyện ô vân (Phạm Tuyên)
vế đối 9: Tóc xanh thấy phát thương (khuyết danh)
vế đối 10: Béo phù thở phì phò (Lê Anh Chí)
vế đối 11: Áo xanh lay lục phục (Lê Anh Chí)
vế đối 12: Quần áo vung phùng phục (Lê Anh Chí)
vế đối 13: Đá chàm sờ lam nham (Lê Anh Chí)
vế đối 14: Suối đỏ khoan thông hồng (khuyết danh)
vế đối 15: Giấy đổ viết chu da (khuyết danh)
vế đối 16: Sen xấu mọc liên tục (khuyết danh)
vế đối 17: Lưỡi đỏ ngó thiệt hồng (khuyết danh)
vế đối 18: Ra vào đòi giao hợp (khuyết danh)
vế đối 19: Mũi thấp hun tị ti (khuyết danh)
vế đối 20: Đĩ mập đánh phì phò. (Meidil)
vế đối 21: Con thầy múa Sư Tử (khuyết danh)
vế đối 22: Ngựa ông ăn mã tổ (khuyết danh)
vế đối 23: Con rể ở tử tế (khuyết danh)
vế đối 24: Đá đen chèn hắc thạch (Ngọc Châu)
vế đối 25: Ngỗng bạc réo ngân nga (Dương Hồng Kỳ)
vế đối 26: Áo đen hát y… ô... (Dương Hồng Kỳ)
vế đối 27: Đại gia ở nhà to (khuyết danh)
vế đối 28: Xương liền cọ cốt kết (khuyết danh)
vế đối 29: Rùa vàng lồng Quy Hoàng (khuyết danh)
vế đối 30: Rùa đen lèn Quy Hắc (khuyết danh)
Ghi chú 2 câu 29 và 30: Hình tượng con “Rùa- mu Rùa” nhân gian VN thường liên hệ và dùng ví biểu tượng “mu… bộ phận sinh dục nữ”; còn hình tượng “đầu Quy” nhân gian thường dùng gọi “đầu dương vật nam= đầu quy”. Người xưa còn có lệ “cắt bao Quy- phần da bọc đầu dương vật bé trai”. Theo Hán Nôm thì Quy nghĩa là Rùa. Khi giao hợp thì Rùa cái cõng Rùa đực trên lưng- hai lồng làm một…
vế đối 31: Mấn đen chùm váy thâm (Đuyên Hồng)
vế đối 32: Bạn trẻ khóc nỉ non (Đuyên Hồng)
vế đối 33: Chị kia khóc tỉ tê (Đuyên Hồng)
vế đối 34: Đàn nhỉ kêu tí ti (Đuyên Hồng)
vế đối 35: Vợ hiền buồn thê lương (khuyết danh - mặc dù chỉnh phần Vợ Hiền và Thê Lương nhưng chữ Thê Lương lại không đối được với chữ Bì Bạch vì không là tứ láy, điệp ngữ)
vế đối 36: Xương trắng đóng cốt bạc (khuyết danh)
vế đối 37:Lưỡi dữ nói thiệt uy. (khuyết danh)
vế đối 38:Người sau vô nhân hậu. (khuyết danh)
vế đối 39:Bảy đời đều thất thế. (khuyết danh)
vế đối 40:Quốc sống tự nguyên sinh. (khuyết danh)
vế đối 41:Rùa lạy xin qui phục. (khuyết danh)
vế đối 42:Mắt xanh xem mục lục. (khuyết danh)
vế đối 43:Cờ lông bay kỳ khôi. (khuyết danh)
vế đối 44:Lưỡi nói nhiều thiệt ngôn. (khuyết danh)
vế đối 45:Mèo mốc kêu miêu meo. (khuyết danh)
vế đối 46:Tiếng trong giọng thanh thanh. (khuyết danh)
vế đối 47:Chân đủ gà túc túc. (khuyết danh)
vế đối 48:Bồ bao thổ bịch bịch. (khuyết danh)
vế đối 49:Rắn ngỗng chạy xà ngang. (khuyết danh)
vế đối 50:Rùa ngàn đã qui thiên. (khuyết danh)
vế đối 51:Mỏ cụt gõ cồng cộc. (khuyết danh)
vế đối 52:Tóc trắng đã phát bạc. (khuyết danh)
vế đối 53:Tóc xanh đứng phát thanh. (khuyết danh)
vế đối 54:Môi son uống thần châu. (khuyết danh)
vế đối 55: Môi xanh ngậm thần lục. (khuyết danh)
vế đối 56: Trăng thu hướng nguyệt thu. (khuyết danh)
Đọc thêm bài sưu tầm tại đây

Câu đối có giai thoại sự tích và thơ đối đáp Việt Nam

Lưu Vũ Tích và bài thơ Trúc Chi Từ và mời tham gia đối thơ.

Kính mời quý anh chị đọc về câu chuỵên bài thơ Trúc Chi Từ của Lưu Vũ Tích.
Khi nói đến thơ xưa, thì tôi tìm thấy những câu thơ đối dưới đây chưa có người đối, mời quý anh chị yêu thơ kỷ thuật thử đối nhé.
Trong một bài khác sẽ post sau về chủ đề câu đối.
Caroline Thanh Hương






1/ - Nam Thông Tiền Bắc Thông Tiền Nam Bắc Thông Tiền Thông Nam Bắc

- Câu đối này một từ hai ý nghĩa, đồng âm đồng nghĩa, quả thực đối lại rất khó khăn.

2/


- Khổng Tử viết: tri chi giả, bất như hảo tri giả, hảo chi giả bất như nhạc chi giả, thị trí dã ….Khổng Tử viết…. 
(Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học. - Gs. Minh Chi dịch)





Trúc chi từ nhị thủ kỳ 1 (Dương liễu thanh thanh giang thuỷ bình)
Dương liễu thanh thanh giang thuỷ bình,
Văn lang giang thượng đạp ca thanh.
Đông biên nhật xuất tây biên vũ,
Đạo thị vô tình hoàn hữu tình.

Dịch nghĩa
Cây dương liễu xanh xanh, nước sông phẳng lặng
Nghe tiếng chàng hát hò trên sông
Phía đông mặt trời mọc, phía tây thì trời mưa
Bảo rằng không tạnh mà lại tạnh.


Bài "Trúc chi từ" này mô phỏng làn điệu dân ca "Trúc chi" vùng Hồ, Tương, khác với "Trúc chi từ" vùng Quỳ Châu.

Dưới đây là vài bản dic̣h của vài tác giả, trong đó có bài của anh Đỗ Quý Bái.



Kính gửi chị Thanh hương và anh chị em trong nhóm Cát Bụi thân mên.

Già nua thơ phú kém xưa rồi !
Xin dịch bài thơ bạn hữu coi : 
Nhuận sắc dùm tôi nhờ quỵ vị 
Còn hai cấu đối hãy chờ thời  

Dương liễu xanh xanh ,nước lặng dòng 
Nghe chàng ca hát vẳng trên sông 
Phương đông nắng ấm ,Tây mưa gió 
Dùng không  đồng đổi lấy có  đồng !    ((lòng)
LTĐQB

-Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Xanh dương liễu, nước sông phẳng lặng
Tiếng chàng hò, nghe vẳng trên sông
Mưa đàng tây, nắng đàng đông

Bảo mưa cũng đúng, trời trong cũng là.

-- Bản dịch của SongNguyễn HànTú --
Nước sông lặng
Bờ xanh xanh liễu rủ
Tiếng bổng trầm giọng lơi lả trên sông
Phương tây mưa
Trời lại nắng phương đông

Lời trong sáng…ý lồng điều cợt nhả


--Bản dịch của Anh Nguyên--
Khúc ca Trúc-chi
Liễu xanh, dòng nước yên lành,
Trên sông, giọng hát của anh ngọt ngào.
Tây mưa, đông mặt trời cao,


Nói vô tình, lại biết bao nhiêu tình...

Lưu Vũ Tích

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm
Liu Yuxi
Riu Yu hsi.jpg
Tranh miêu tả Lưu Vũ Tích từ Wan Xiao Tang, published in 1743
Tên bản ngữ劉禹錫
Sinh772
Luoyang, Hà Nam, China
Mất842 (69–70 tuổi)
Luoyang, Henan, China
Nghề nghiệpPoet, philosopher, essayist
Tác phẩm nổi bật"The Scholar's Humble Dwelling"
Lưu Vũ Tích
Phồn thể
Giản thể
Mengde
Phồn thể
Giản thể
Lưu Vũ Tích (chữ Hán: 劉禹錫, 772-842) tự: Mộng Đắc (夢得); là viên quan và là nhà thơ Trung Quốc thời Trung Đường.

Tiểu sử

Lưu Vũ Tích là người Lạc Dương (nay là thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam) [1]. Nguyên quán tổ tiên ông ở Trung Sơn, nay là huyện Định, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc).
19 tuổi, Lưu Vũ Tích đến học ở kinh đô Trường An (nay là Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây).
Năm 21 tuổi, ông thi đỗ Tiến sĩ, sau lại đỗ thêm khoa Bác học hoành từ.
Dưới thời Đường Thuận Tông (ở ngôi: 805), ông cùng với Liễu Tông Nguyên giúp Vương Thúc Văn chấp chính, có đề ra một số biện pháp canh tân. Nhưng không lâu sau, Vương Thúc Văn bị giáng chức, ông cũng bị đưa đi làm Tư mã Lãng Châu (nay là Thường Đức, tỉnh Hồ Nam), bấy giờ ông 33 tuổi.[2]
Chín năm sau (814), Lưu Vũ Tích được triệu về kinh đô. Rồi vì bài thơ làm ở Huyền Đô quán (Trường An) [3], xúc phạm giới cầm quyền, ông lại bị đưa đi làm Thứ sử ở Liên Châu (nay là huyện Liên, tỉnh Quảng Đông). Về sau, ông còn làm Thứ sử ở Quỳ Châu và Hòa Châu, có nghĩa là còn bị đày nhiều năm nữa.
Những năm cuối đời, Lưu Vũ Tích về ở Lạc Dương, làm chức quan nhàn tản là Thái tử tân khách (tức làm tân khách của Thái tử) [4]. Đến đời Đường Vũ Tông (ở ngôi: 840-846), ông được phong làm Kiểm hiệu Lễ bộ Thượng thư.
Năm 842, Lưu Vũ Tích mất, thọ 70 tuổi.
Tác phẩm thi ca của ông có Lưu Tân Khách tập, gồm 40 quyển.[5]

Sự nghiệp văn chương

Có hoài bão lớn, lại phải sống phiêu bạt nhiều năm, Lưu Vũ Tích sinh ra căm phẫn xã hội bất công. Vì vậy, ông làm khá nhiều bài thơ bộc lộ nỗi phẫn uất trong lòng, hoặc lấy cớ vịnh sử để tỏ chí bất khuất, hoặc lấy cớ vịnh vật để chỉ trích nền chính trị thối nát đương thời. Các bài như "Hôn kính từ" (Bài từ kính tối), "Dưỡng chí từ" (Bài từ nuôi chim cắt), "Tụ văn dao" (Khúc ca dao tụ đàn muỗi), "Độc Trương Khúc Giang tập tác" (Cảm tác khi đọc tập thơ Trương Khúc Giang),...đều bao hàm những điều ấy.
Thơ hoài cổ của ông cũng rất được tán thưởng, vì chúng đều chan chứa tình cảm ai oán bi thương. Nổi bật có các bài "Ô Y hạng" (Ngõ Ô y), "Tây Tái sơn hoài cổ" (Nghĩ lại chuyện xưa ở núi Tây Tái), "Kim lăng hoài cổ" (Nghĩ lại chuyện xưa ở Kim Lăng), "Thục tiên chủ miếu" (Miếu Thục tiên chủ),...
Mặt khác, vì từng sống lâu ở vùng sông Sở núi Ba [6], khiến ông sinh lòng yêu mến ca dao địa phương. Tiếp nối truyền thống học tập dân ca của Khuất Nguyên, ông làm ra chín thiên "Trúc chi từ" (theo làn điệu dân ca "Trúc chi từ" ở vùng Quỳ Châu) và chín bài từ theo điệu "Lãng đào sa"...Đây là những tác phẩm mang phong cách mới do ông hấp thu, dung hòa những cái hay cái đẹp của dân ca mà thành.
Ngoài thơtừ, ông còn viết ba thiên "Thiên luận" (Bàn về trời, viết tiếp theo "Thiên thuyết" [Nói về trời] của Liễu Tông Nguyên), trình bày sâu sắc thêm tư tưởng vô thần. Do vậy, ông được xem là "nhà tư tưởng duy vật thô phác đời Đường" [7].
Nhìn chung, thơ ca của Lưu Vũ Tích thường trong trẻo, hùng hồn, tiết tấu khá hài hòa. Đương thời, ông được sánh ngang với Bạch Cư Dị (người đời gọi chung là Lưu-Bạch), còn Bạch Cư Dị thì gọi ông là "thi hào" [8].

Tìm hiểu thơ thuận nghịch và đặc biệt thơ thuận nghịch của Đỗ Quý Bái, Hàn Ṃặc Tử và bài Vô Đề của vua Tự Đức.

tt

Mời quý anh chị đọc thơ thuận nghịch của anh Đỗ Quý Bái và bài sưu tầm về thơ thuận nghịch của Hàn Mặc Tử.
Caroline Thanh Hương

Mời anh chị em đọc cho vui  ,hứng thì xin chấp bút nhuận sắc dùm 
Trân trọng cám ơn 
LTĐQB 


Cám ơn thi hữu Van Ca nhé
Thuận Nghịch độc thi đã tỏ tường
Xin họa đại chơi vui với bạn
Dở hay Lạc Thủy cũng liều cương

                  ĐÓN XUÂN NGOẠN CẢNH NHỦ LÒNG    

ĐỌC XUÔI

Ta đón nắng xuân ánh sáng ngời
Cỏ cây tươi thắm sắc đầy vơi
Hoa Hương chứa chất mơ huyền ảo .
Địch sáo chan hòa mộng tốt tươi .
Qua lại miếu chùa, duyên độ sãi ...
Tới lui đàn viện , phúc chờ người ...
Xa xưa đạo hạnh chuyên cần nhớ
Tha thứ lầm sai , miệng mỉm cười

ĐỌC NGƯỢC

Cười mỉm miệng sai lầm thứ tha
Nhớ cần chuyên hạnh đạo xưa xa !
Người chờ phúc : viện đàn lui tới .
Sãi độ duyên : chùa miếu lại qua .
Tươi tốt mộng hòa chan sáo địch .
Ảo huyền mơ chất chứa hương hoa .
Vơi đầy sắc thắm tươi cây cỏ .
Ngời sáng ánh xuân nắng đón ta

Ma Nữ ====> LTĐQB
8/23/11


 cali van

To BAI DO

Xin kính gởi quí huynh tỷ xem vui , chúc quí huynh tỷ luôn an vui hì hì ..

 Sang Xuân

Đọc Xuôi

Ta vờn nắng chiếu tỏa xanh ngời
Cỏ thắm hương đùa gió nhạt vơi
Hoa bướm kết đàn cung mộng ảo
Trống kèn hòa nhạc nét vui tươi
Qua chùa thỉnh lộc mừng đôi bóng
Lạy phật cầu xuân đón đẹp người
Xa cách dáng hồng tim mãi nhớ
Tha tình sóng mắt rạng duyên cười

Đọc Ngược
Cười duyên rạng mắt sóng tình tha
Nhớ mã tim hồng dáng cách xa
Người đẹp đón xuân cầu Phậ lạy
Bóng đô mừng lộc hỉnh chù qua
Tươi vui nét nhạc hòa kền trống
Ảo mộng cung đàn kết bướm hoa
Hơi nhạt gió đùa hương thấm cỏ
                                  Ngời xanh tỏa chiếu nắng vờn ta

                                                                         Vancali96



2 Bài Thơ Thuận Nghịch Độc (Lục Chuyển Hồi Văn) Của Hàn Mặc Tử











Người ta nghe nhiều về những bài thơ về trăng nổi tiếng của Hàn Mặc Tử và những áng thơ đau thương về máu, về hồn cùng những bài thơ trong trẻo và lãng mạn. Nhưng ít người để ý rằng Hàn Mặc Tử cũng có 2 bài thơ thuận nghịch độc, thơ xuôi ngược rất hay và độc đáo, còn gọi là thể thơ lục chuyển hồi văn.
Và hôm nay, sau những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử, xin gửi đến các bạn chùm 2 bài thơ thuận nghịch độc, thơ lục chuyển hồi văn rất hay và nổi tiếng của ông. Mời các bạn xem qua và thưởng thức, nhưng trước khi đến với 2 áng thơ độc đáo này, các bạn hãy dành một chút thời gian xem qua cách đọc nếu ai chưa biết:
* Thơ thuận nghịch độc, thơ xuôi ngược hay còn gọi là thơ lục chuyển hồi văn, đây là thể thơ độc đáo có nhiều cách đọc. Đó là cách gọi chung cho những thể thơ thuận nghịch độc, tuy nhiên, thơ lục chuyển hồi văn có thể đọc theo 6 cách khác nhau, thơ thuận ngược chỉ đọc được 2 kiểu đơn thuần là xuôi và ngược, còn thơ thuận nghịch độc nói chung thì có rất nhiều cách đọc.
– Cách đọc thơ thuận nghịch độc:
  1. Ðọc xuôi
  2. Ðọc ngược
  3. Bỏ 2 từ đầu đọc xuôi
  4. Bỏ 2 từ đầu đọc ngược
  5. Bỏ 2 từ sau đọc xuôi
  6. Bỏ 2 từ sau đọc ngược
  7. Bỏ 3 từ đầu đọc xuôi
  8. Bỏ 3 từ đầu đọc ngược
  9. Bỏ 4 từ đầu đọc xuôi
  10. Bỏ 4 từ đầu đọc ngược
  11. Bỏ 3 từ đầu, lấy từ 5 đảo làm 4 – đọc xuôi
  12. Bỏ 3 từ cuối, lấy từ 3 đảo làm 4 – đọc ngược
  13. Ghép chéo câu thơ đọc xuôi
  14. Ghép chéo câu thơ đọc ngược
  15. Có thể đọc theo nhiều kiểu khác nữa.
Cách đọc thơ lục chuyển hồi văn:
  1. Ðọc xuôi
  2. Ðọc ngược
  3. Bỏ 2 chữ đầu đọc xuôi
  4. Bỏ 2 chữ đầu đọc ngược
  5. Bỏ 2 chữ sau đọc xuôi
  6. Bỏ 2 chữ sau đọc ngược
– Cách đọc thơ thuận ngược: Đọc xuôi & đọc ngược.

Các bạn hãy áp dụng cách đọc bên trên để đọc những áng thơ được biến hóa từ bản gốc và đăng chúng trong phần bình luận nhé, trong bài viết này tôi không viết ra tất cả mà chỉ đăng bản đọc ngược để các bạn tiện xem.

1, Đi Thuyền (Hàn Mặc Tử – Lục Chuyển Hồi Văn)

Bèo trôi nước giợn sóng mênh mông
Cỏ mọc bờ xa bóng liễu trông
Chèo vững thiếp qua vời khổ hải
Chí bền chàng đến vận trung không
Theo lần nguyệt xế mây mờ mịt
Hoạ đáp thông reo trống não nồng
Neo thả biết đâu nơi định trước
Bèo trôi nước giợn sóng mênh mông
Đọc ngược:
Mông mênh sóng giợn nước trôi bèo
Trước định nơi đâu biết thả neo
Nồng não trống reo thông đáp họa
Mịt mờ mây xế nguyệt lần theo
Không trung vận đến chàng bền chí
Hải khổ vời qua thiếp vững chèo
Trông liễu bóng xa bờ cỏ mọc
Mông mênh sóng giợn nước trôi bèo

2, Cửa Sổ Đêm Khuya (Hàn Mặc Tử – Lục Chuyển Hồi Văn)

Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn sóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hoà đàn sẵn có dế bên tường.

Đọc ngược:
Tường bên dế có sẵn đàn hòa
Lá ủ dâu ngàn yến lại qua
Bàng bẽ rượu thơ ngâm bạn vắng
Láng lai tình cảnh nhớ người xa
Hương đưa gió thoảng mai hờ hững
Sóng gợn hồ in liễu thướt tha
Vương vấn nỗi thêm buồn cảnh lạ
Gương lồng cửa rọi nguyệt cười hoa

Giới thiệu thêm với các bạn 2 bài thơ thuận ngược, thơ lục chuyển hồi văn rất hay nữa của những tác giả khác, mời các bạn cùng xem:

Vô Đề (Vua Tự Đức – Lục Chuyển Hồi Văn)

Gương tà nguyệt xế đã ngoài song
Héo hắt sao trông quá sức trông
Thương bấy thiết tha lòng héo liễu
Nhớ thêm vàng vọ má phai hồng
Vương sầu xiết tưởng chi ngôi bắc
Ðoạn thảm xui buồn vã chạnh đông
Chàng hỡi biết chăng ai bực bội
Loan hàng viết thảo tả tình chung
Đọc ngược:
Chung tình tả thảo viết hàng loan
Bội bực ai chẳng biết hỡi chàng
Đông chạnh vã buồn xui thảm đoạn
Bắc ngôi chi tưởng xiết sầu vương
Hồng phai má vọ vàng thêm nhớ
Liễu héo lòng tha thiết bấy thương
Trông sức quá trông sao héo hắt
Song ngoài đã xế nguyệt tà gương

Đền Ngọc Sơn (Khuyết Danh – Thuận Nghịch)

Linh uy tiếng nổi thật là đây:
Nước chắn, hoa rào, một khoá mây.
Xanh biếc nước soi, hồ lộn bóng,
Tím bầm rêu mọc, đá tròn xoay.
Canh tàn lúc đánh chuông ầm tiếng,
Khách vắng khi đưa xạ ngát bay.
Thành thị tiếng vang đồn cảnh thắng,
Rành rành nọ bút với nghiên này.
Đọc ngược:
Này nghiên với bút nọ rành rành:
Thắng cảnh đồn vang tiếng thị thành.
Bay ngát xạ đưa khi vắng khách;
Tiếng ầm chuông đánh lúc tàn canh.
Xoay tròn đá mọc rêu bầm tím;
Bóng lộn hồ soi nước biếc xanh.
Mây khoá một rào hoa chắn nước,
Đây là thật nổi tiếng uy linh.

Cuối cùng mời anh chị đọc về những nghịch lý của cuộc sống nhé. 

 ----- Mail transféré -----
Khi không có tiền, họ ăn rau rừng ở nhà;
Khi có tiền, họ cũng ăn những thứ rau rừng ấy nhưng phải tốn nhiều tiền ở nhà hàng sang trọng.
Khi không có tiền, họ đi xe đạp;
Khi tiền bạc rủng rỉnh, họ cũng lại đạp cái thứ xe đạp tập thể dục
Khi không có tiền, họ phải đi bộ cả ngày kiếm cơm;
Khi có khá tiền, họ cũng phải đi bộ để giảm béo
Ôi con người, họ có bao giờ không dối lừa ngay cả với bản thân?!
Khi không tiền, họ khao khát được kết hôn;
Khi có tiền, họ lại ước muốn được ly dị người đã đồng cam cộng khổ thuở họ còn hàn vi.
Khi không tiền, vợ họ thành thư ký; người giúp việc nhà…
Khi có tiền, thư ký của họ được biến thành vợ hai, vợ ba, để theo họ đi du hý.
Khi không tiền, họ thích chơi sang như người giàu có;
Khi có tiền lại giả vờ sống như kẻ nghèo rớt mồng tơi.
Ôi con người! Họ chẳng bao giờ nói ra lời thật, đơn giản;
Họ nói chơi cổ phiếu là không tốt, nhưng rất say mê đầu tư chứng khoán.
Họ nói tiền bạc là tai họa, nhưng cứ lao khổ tích lũy cho nhiều.
Họ nói địa vị cao thật cô đơn, nhưng luôn thèm muốn chức quyền, và lo lót khối tiền chạy chức.
Họ nói cờ bạc, rượu chè, trai gái có hại, nhưng cứ mê man với những thứ đó.

HCD: Tác giả nhìn thấy những nghịch lý nầy để nêu ra quả là hay.