Kính gửi quý anh chị những bài viết, thơ, nhạc của groupe Hương Xuân 2016.
Lời Hay Ý Đẹp: Tấm Gương Sáng Để Ngưỡng Mộ ( ĐH sưu tầm ).
Cám ơn anh Duy Quang đã cho nghe bài hát thật hay của Hoa Biển và Vy Thảo.
Cám ơn chị Cathy đã sưu tầm và gửi bài viết của nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh.
Cuộc Tình Cuối Đời - Nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh
Lời Tòa Soạn:
Nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh
gốc Quân Đội: ông xuất thân khóa 6 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, chức
vụ sau cùng là Trung tá Trưởng Phòng Báo Chí, thuộc Cục Tâm Lý Chiến,
tổng cục Chiến Tranh Chính Trị. Sau 04/75, ông tạm cư Hawai , chạy
Taxi. Hiện ông định cư tại Houston, TX.
Tác phẩm: Mộng Xuân (1963). Dường Như Mùi Hương (1968). Tương Khúc Dậy
Thì (1968). Di Sản (1976). Đôi Mắt Phương (1987). Chân Dung Tên Khủng
Bố (1997). Mua Vợ (2004).
Trước 1975, ông chủ trương Tuần Báo Diều Hâu và Chương trình Vành Khăn
Sô. Ông viết nhiều bài Chính Trị Giả Tưởng khả dĩ giúp các nhà Lãnh đạo
bấy giờ có cái nhìn sâu rộng hơn về thực trạng cuộc chiến ý thức hệ.
Sau 1975, ông tốt nghiệp Đại Học Báo Chí Hoa Kỳ, tại viện đại học
Hawaii,, vẫn viết nghị luận thường xuyên cho các Nhật báo tại Cali và
Texas....Hiện ông là chủ bút Thời Báo Houston.
Nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh gởi cho Phố Núi Pleiku hai truyện ngắn và ông
hứa là sẵn sàng cộng tác với Nhóm Chủ trương trong khả nằng của ông,
(chỉ cần sống thêm 20 năm nữa là ông đại thọ 100!)
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc Phố Núi chuyện ngắn Cuộc Tình Cuối Đời của nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh.
Cuộc Tình Cuối Đời
NGUYỄN ĐẠT THỊNH
BỮA
CƠM TỐI CHU NHẬT 29 Tết chỉ có hai món: một con cá hồng chưng tương tầu
và một dĩa rau muống xào. Rau xào bằng loại chảo không dính để tránh
dùng dầu ăn. Dĩa rau nhỏ hơn nhưng lại mắc hơn dĩa cá, vì mâm cơm dọn ở
thành phố Biloxi vào một đêm đông. Tiết trời tháng Hai dưong lịch đã
lạnh khiến rau muống phải nhập cảng từ Mễ vào.
Khí hậu giải thích giá rau mắc, và vị trí của Biloxi giải thích giá cá
rẻ. Nằm trên Vịnh Mễ Tây Cơ, Biloxi là thị trấn định cư của hàng ngàn
ngư phủ Việt Nam. Con cá hồng 3 pao giá một đồng. Cá phải mua vì cửa
biển đã đóng từ tuần trước, khi giới chức dưỡng ngư quyết định thời
điểm chấm dứt mùa đánh tôm.
Mùa tôm kéo dài 5 tháng mỗi năm; 7 tháng còn lại để tôm sanh sản và lớn
đến mức 50 con cân nặng một pao thì cửa biển lại mở để ngư phủ hành
nghề. Ngư phủ Việt Nam, quen sống giữa Thái Bình Dương hùng vĩ, mênh
mông, không gọi Vịnh Mễ Tây Cơ là biển, mà coi nó như một cái hồ. Ngày
đầu mùa tôm là ngày mở cửa hồ.
Cửa hồ đã mở rồi thì cá chỉ có nước đổ đi. Bốn trăm chiếc tầu cào, mỗi
hai tiếng đồng hồ kéo lưới lên một lần, mỗi lần mỗi lưới vét từ đáy biển
khoảng trên một tấn hải sản đủ loại, trong số đó tôm --loại bán được--
ít nhất, và cá --loại không ai mua-- nhiều nhất. Mỗi 24 tiếng đồng hồ
400 chiếc tầu cào đổ xuống biển 5,000 tấn cá. Con số này không khuếch
đại, và đã từng làm nhiều người có óc doanh thương và biết nghề làm
nước mắm tiếc hùi hụi.
Mỗi lần tầu kéo lưới hàng ngàn con hải âu ồn ào bay theo, lượn quanh
chờ ngư phủ cào cá xuống biển là xà sát mặt nước dùng mỏ gắp cá chết
bay lên. Hàng vạn con cá sống cũng lội theo tầu tìm ăn cá chết. Sinh
hoạt nhộn nhịp trên cả ba tầng cao độ: trên không, trên và dưới mặt
biển. Hải âu và cá tuy nhiều nhưng nguồn thực phẩm đổ đi lại quá thừa
thãi, ăn không kịp, nên thông thường ngư phủ vẫn phải lưới trở lại
những con cá chết đã bị lưới ít nhất là một lần.
Một vài ngư phủ bợm nhậu đã chế ra cách câu hải âu để đánh tiết canh.
Họ móc mồi cá vào lưỡi câu rồi thả xuống nước. Sức tầu xê dịch kéo con
cá mồi nổi trên mặt nước, thu hút sự chú ý của hải âu. Chim xà xuống
biển ăn cá, mắc câu, bay bổng lên trông giống như một con diều lộng
gió. Anh bợm nhậu kéo diều xuống, cắt cổ lấy tiết rồi ném con chim
xuống biển. Việc câu chim làm mồi nhậu sau này bị cấm đoán vì ngư phủ Mỹ
vớt trúng những xác hải âu đã tố cáo với cốt gạc là việc giết chim làm
tiết canh vô nhân đạo hơn việc giết cá, giết tôm đóng hộp. Người Mỹ
văn minh quý sinh mạng con chim, con chó, hơn sinh mạng người dân
Palestine nhiều.
Trên bàn ăn chỉ có hai người: ông Chương và bà Thủy, cả hai tròm trèm
70. Bà Thủy khéo léo lách lưỡi dao bàn theo lườn xương cá, cắt ra
nguyên thớ phi lê dài trên một tấc. Cách bà cầm nĩa, cầm dao bàn, cho
thấy bà đã được giảng dạy những điều lịch sự trên bàn ăn, và cũng đã
nhiều lần ăn theo lối tây phương.
"Anh dùng miếng nạc này đi". Giọng người đàn bà Hà Nội nghe ngọt hơn
thớ cá chưng tương hoisin. Ong Chương chưa ăn cá, ông cũng không uống
rượu, nhưng đang ngây ngất say men tình. Dùng đũa sắn đôi thỏi phi lê,
ông gắp phần đầu vào chén cơm của bà, phần đuôi ông bỏ vào chén cho
mình.
"Ăn cá, ăn rau lành mạnh như thế này là mình dư sức thọ trăm tuổi". Ông
nói để khen cái quyết định ăn uống thanh đạm mà bà đã chọn, ăn chỉ vừa
đủ để bồi dưỡng theo đúng nhu cầu của cơ thể chứ không ăn cho đã miệng
để rồi tự tử bằng thực phẩm. Ong còn muốn nói thêm là bữa ăn không
thịt, không dầu mỡ, nhưng vẫn ngon là nhờ tài nấu nướng khéo léo của
bà, nhưng không nói vì e ly chè ngợi khen quá ngọt sẽ khó nuốt. Điều
chính ông muốn nói là ông muốn sống trăm tuổi với bà.
Năm ngoái ông không yêu đời đến mức ao ước thọ trăm tuổi. Dù tương đối
khỏe mạnh, nhưng ông không thấy chuỗi ngày mùa đông thê thảm của cuộc
đời cám dỗ gì lắm. Nhưng từ mấy tháng nay, từ ngày gặp bà Thủy, cuộc
sống trở thành dễ thương hơn. Oâng biết những thay đổi đó là nhờ bà.
Bà thường ngượng nghịu mỗi khi ông khen quá lời, nhưng ông vẫn thèm
khen. Nhiều lần ông đã biện bạch là lời ông khen chỉ nói lên một sự
thật hiển nhiên, và dù ông có khen bà nhiều hơn nữa, ngôn từ ông dùng
vẫn chưa diễn tả được một nửa ý ông.
Ông Chương yêu bà Thủy. Yêu thật chứ không phải thương, quý, hay trọng
gì cả. Ông có trọng cái tư cách nghiêm trang, đài các, có thương cái nết
đằm thắm, dịu dàng, có quý cái đức đảm đang, cần kiệm của bà, nhưng
tất cả những thứ đó đều đi sau chữ "yêu" nồng nàn, say đắm.
Ông yêu bà vì cái thể xác tuyệt mỹ, cái duyên kín đáo của bà; ông say
đắm hưởng những phút khoái lạc dục tình ông tưởng đã vĩnh viễn mất đi
sau tuổi thất thập. Tết này, ngày mốt, ông đúng 70. Cả hai ông bà vẫn
tráng kiện. Họ biết giữ gìn sức khỏe. Ngoài việc ăn uống thanh đạm, họ
còn tập thể dục. Mỗi buổi chiều, họ sóng vai chạy trên bãi biển suốt
nửa tiếng đồng hồ. Vào mùa ấm, họ còn bơi lội nữa.
BÀ THỦY 66. Bà sinh năm 1936, năm năm trước ngày Tây thuộc địa bị Nhật
quân phiệt hạ bệ tại Việt Nam. Những năm đó, những thập niên đó, làn
gió Tây học bắt đầu rụt rè thổi vào mảnh đất có bờ biển mang hình dạng
một chữ ét xì dài 2,500 kí lô mét, vô cùng trù phú mà cũng vô cùng hiền
lành. Nhiễm gió tây học, người Việt Nam bị trị bắt đầu nhìn những ông
Tây, những bà đầm ăn, ở sang trọng, hưởng thụ thừa mứa, bóc lột thẳng
tay, mà còn làm mưa, làm gió trên quê hương họ, như những ngoại nhân
tiếm quyền và bạo ngược.
Cụ thân sinh ra bà Thủy là một thầy phán tòa toàn quyền Pháp tại Hà
Nội. Mặc dù làm thông phán cho bộ máy cai trị của thực dân, nhưng học
thức cũng vẫn khiến cụ Phán có tư tưởng chống Pháp. Cụ bí mật đọc những
tài liệu cách mạng, bí mật đóng góp giúp tài trợ phong trào Việt Nam
Quốc Dân Đảng mà cụ vô cùng thán phục vị Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học và
những đảng viên anh hùng đã dũng mãnh ngay cả trong phút bước lên đoạn
đầu đài.
Cụ Phán cũng họ Nguyễn, cùng họ với vị anh hùng chống Pháp. Lòng kính
phục của cụ đối với Nguyễn Thái Học khiến cụ mượn chữ "Thái" trong tên
ông làm chữ lót cho tên cô con gái đầu lòng: Cô bé
Nguyễn-Thị-Thái-Thủy. Mặc dù chưa bỏ được chữ thị tiềm ẩn kỳ thị nam
nữ, nhưng cái tên dài 4 chữ cũng đã là chỉ dấu văn minh của một ông bố
thông phán 66 năm về trước.
Cụ Phán văn minh? Nhưng cụ chỉ thụ động hưởng ứng cuộc cách mạng dân
tộc? Cụ vẫn chưa vượt được chữ "thị" kỳ thị? Tất cả những điều đó không
còn quan hệ nữa. Trăm điều của thế kỷ trước đã trở thành lịch sử. Tất
cả đã sang trang. Người Việt quảng đại đã tha thứ, không còn hận Tây,
không còn thù Nhật nữa. Ngay cả bà Thái Thủy, con gái rượu của cụ Phán
cũng đã thành một bà cụ, và cũng đang sắp sang trang. Trang giấy ghi
chép mọi diễn biến của cuộc đời nhiều gian truân đang ở những giòng chữ
cuối cùng.
Thế hệ bà Thủy sống là thế hệ lắm diễn biến. Thế hệ trước, song thân bà
không gặp nhiều đổi thay đến như vậy. Diễn biến cũng không quá nhiều
đối với thế hệ con bà. Mọi điều vật đổi sao dời đều chờ cho đến thế hệ
của bà để xẩy ra.
Dù chỉ kể những diễn biến lớn của đất nước, bà Thái Thủy cũng đã chứng
kiến 4 năm "xuống chó" của thực dân Pháp, song song với cái thế "lên
voi" của những ông lính Nhật quấn xà cạp bó ống quần, đeo vừa gươm dài,
vừa súng ngắn trên thắt lưng.
Sau 4 năm bạo ngược, mổ bụng người ăn vụng vì quá đói, chặt tay người
ăn trộm vì quá nghèo, và tạo ra nạn đói giết hai triệu người Việt Nam,
quân đội Nhật hát bài Xây O Na Ra với giấc mộng Đại Á. Họ nói là họ đến
Việt Nam để giải phóng nước Việt ra khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.
Họ không nói đến cái ách đô hộ khác, cũng nặng nề, tàn bạo không kém
ách cũ, mà họ đem từ Đông Kinh sang để lại tròng lên cổ người Việt. Họ
đi trước Việt Cộng trong sáng kiến gọi việc đổi gông là giải phóng.
Thất trận, họ đầu hàng.
Bé Thái Thủy, 10 tuổi, theo bố ra Công Trường Ba Đình chứng kiến cảnh Bác mang râu, đội mão tuyên bố Việt Nam độc lập.
Cụ Phán đã khóc vì mừng và vì xúc đọâng trước những danh từ to lớn và
mới toanh, nói lên niềm thèm khát chân chính của cả một dân tộc. Ngôn
ngữ quả là một khoa học chính xác, được cộng sản đem áp dụng lần đầu
tiên trên dân tộc Việt Nam. Trước đó Tây thực dân không thấy, và Nhật
quân phiệt không có nhu cầu vận dụng xúc động của người Việt. Hơn nữa
cả hai cùng không biết tuyên truyền là thứ khí giới mới nhưng vô cùng
lợi hại của chiến tranh. Những danh từ "độc lập", "cơm áo", "chủ quyền
quốc gia", " tự do", "hạnh phúc", ... đánh vào từng giây thần kinh căng
cứng của người Việt, tạo ra những phản tác như giây đàn tạo ra âm
thanh. Cả nước cùng khóc với cụ Phán, cả nước cùng xúc động vì được Bác
lừa. Bác tiếp tục dùng ngôn ngữ đánh lận 30 triệu người Việt Nam để họ
đem thân xác ra làm chiến lũy bảo vệ cho chủ nghĩa cộng sản trong lúc
họ tưởng họ chiến đấu để giải phóng dân tộc.
Cụ Phán trở thành một cán bộ cộng sản. Học thức giúp cụ thâu nhận nhanh
chóng những tư tưởng mới, những kỹ thuật, chiến thuật mới để chỉ huy
những người chậm thu nhận hơn. Cụ vắng nhà suốt 5 năm để kháng chiến
chống Pháp.
Năm 1951 cụ trở về Hà Nội. Kiến thức giúp cụ nhận ra chân tướng của
Việt Cộng mặc dù vào thời điểm đó chúng còn trá hình dưới bộ mặt Việt
Minh. Cụ ghê tởm cộng sản hơn là ghê tởm thực dân. Cả thực dân lẫn cộng
sản đều bóc lột, nhưng cộng sản vô luân hơn vì chúng còn lừa gạt và
giết người. Về thành, cụ buôn bán nuôi con, tạm gác việc nước mà cụ
không có môi trường gánh vác nữa.
Năm 1954 cô thiếu nữ 18 Nguyễn Thị Thái Thủy theo bố mẹ và một triệu
người Bắc Việt thực hiện cuộc bỏ phiếu bằng chân lần đầu tiên trong
chiến sử Việt Nam để quyết liệt bầy tỏ thái độ chính trị chống cộng. Họ
bỏ lại sau lưng mồ mả tổ tiên, nhà cửa, tài sản, để chọn tự do.
Năm 1957, cô sinh viên luật khoa 21 tuổi nhận lời cầu hôn của Hải Quân
Thiếu Úy Trần Đại Dương. Bỏ học cô theo chồng ra Nha Trang để bắt đầu
cuộc sống vợ lính trong trại gia binh. Cô chứng kiến đầy đủ những khó
khăn khiếp đảm, những hy sinh, những cố gắng tuyệt vời của người lính
Nam Việt trong suốt 21 năm chiến đấu bảo vệ quê hương.
Ngày cuối cùng của cuộc chiến Đại Tá Trần Đại Dương chỉ huy một đoàn 4
chiếc chiến hạm rời căn cứ Hải Quân Cần Thơ, xuôi giòng Hậu Giang rút
ra đại dương chở theo 756 trong số hai triệu cử tri tham dự cuộc bỏ
phiếu bằng chân lần thứ nhì.
Trang giấy ghi chép cuộc đời người đàn bà sinh ra và lớn lên giữa "thủa
trời đất nổi cơn gió bụi" mang nhiều trân chuyên chồng chất, chi chít.
Mất nước, người lính biển anh hùng mang cái tên tiền định Trần Đại
Dương vẫn ngày ngày đè gió, cỡi sóng, vượt biển, nhưng ông không tuần
phòng duyên hải ngăn cấm địch quân xâm nhập nữa. Ông trở thành một ngư
phủ. Môi trường sinh hoạt vẫn là sóng cao, biển cả, nhưng người lính
thất trận không còn bao giờ tìm lại được những phút vui hồn nhiên ngày
xưa. Ông lơ là với mọi việc, kể cả việc giáo dục, hướng dẫn con cái trên
đường học vấn.
Gánh nặng trách nhiệm gia đình ông đặt hết lên đôi vai gầy của vợ. Bà
can đảm, tháo vác gây dựng cho đàn con 4 đứa. Đứa nào cũng tốt nghiệp
đại học, cũng có công ăn, việc làm vững vàng. Sáu năm trước người lính
biển Đại Dương qua đời. Bác sĩ ghi trên giấy khai tử là ông chết tự
nhiên, không bệnh hoạn gì cả. Nhưng bà Thủy biết ông bệnh: cái bệnh u
buồn, uất ức của một người lính đã làm tất cả những gì sức mình làm
được mà vẫn không bảo vệ được đất nước.
Chôn chồng xong, bà tiếp tục lo cho con, trách nhiệm mà bà vẫn gánh vác
ngay cả trong lúc ông còn sống. Bà vui với trách nhiệm, với sự thành
công của con cái, và những tưởng trang sổ đời bà đã ghi đến những giòng
cuối, với bốn chữ "Tiết Hạnh Khả Phong" đúc bằng bạch kim, lộng trong
khung vàng 24 để vinh danh cuộc đời bó tròn, nén vuông của một người
đàn bà Việt Nam. Nhưng giờ này, chữ chót trên trang giấy lại là chữ
"yêu" đầy trớ trêu khiến bà Thái Thủy nghe ngượng ngùng với gia đình,
với con, với người đồng hương trong cái xã hội Việt Nam thích miệng
tiếng.
BÀ
THỦY NGỰONG vì tính chất muộn màng của cuộc tình cuối đời. Tuy nhiên bà
vững vàng và chân thành tin tưởng tình yêu giữa bà và ông Chương đích
thực là tình yêu chứ không phải là một cuộc sống chung để đỡ đần, an ủi
nhau trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời. Nhiều người đàn bà
trang lứa với bà đã hành động như vậy. Vài năm sau khi chôn cất người
bạn đời, họ tìm một người bạn cuối đời, để trốn cái quạnh hiu, lạnh lẽo
của những năm empty nest ảm đạm: con chim trống gẫy cánh, đàn chim con
bay xa, xây dựng tổ riêng của chúng, bỏ quên bà đối diện với những
buổi chiều dài vô tận.
Bà Thủy không chóa mắt với cái "cấp bằng" tiết hạnh khả phong của xã
hội, nhưng bà cũng không coi nhẹ việc bước thêm một bước nữa. Bà đã
diện bích trong suốt 6 năm dài. Bà sợ cái trống vắng, cô quạnh của
người đàn bà góa Việt Nam, quen lấy cuộc sống gia đình làm căn bản, và
đặt nhẹ, nếu không hoàn toàn gạt bỏ, mọi sinh hoạt bên ngoài ngưỡng
cửa. Giờ này, không còn cuộc sống gia đình, họ không còn bất cứ một bận
rộn, một bận tâm nào khác nữa. Họ mất căn bản, giao động và thèm một
ràng buộc có tác dụng tạo thăng bằng.
Khoảng thời gian khắc nghiệt nhất là 4 tiếng đồng hồ giữa bữa ăn chiều
và giờ đi ngủ. Bốn tiếng đồng hồ đó bà không nói một tiếng nào, không có
ai để nói. Bà ngồi yên trên ghế, tắt truyền hình, tắt đèn lớn và cam
phận im lặng. Tất cả, từ ngoại vi đến nội tâm, đều trống vắng.
Bà xin bác sĩ thuốc ngủ, hy vọng kéo dài giấc ngủ, kéo dài thời gian vô
tri giác, để chạy trốn cô quạnh. Yếu tố giúp bà còn chịu đựng được với
cô quạnh là bà vô cùng quan tâm đến cảm giác của các con trước giả
thuyết bà lập lại gia đình. Bà có thể có chồng khác, nhưng, bà biết,
chúng không bao giờ hình dung được, không bao giờ chấp nhận được sự hiện
diện của người đàn ông thứ nhì trong đời bà với ngôi vị của cha chúng
ngày trước.
Bốn đứa con của bà Thái Thủy, 3 trai, một gái, đều là những con chim
trưởng thành, đủ lông, đủ cánh, rời tổ, và vỗ cánh bay thật xa. Chúng vô
cùng hiếu thảo, vô cùng thương yêu mẹ, nhưng chắc chắn chúng sẽ ngạc
nhiên nếu có người nói cho chúng biết là bà cô quạnh đến mức không thể
nào chịu đựng lâu hơn được nữa. Thằng lớn, thằng Châu, làm bác sĩ giải
phẫu tại San Francisco, thằng thứ nhì, thằng Đức, làm giáo sư tại
U.Mass/Boston; đứa thứ ba, con Oanh, dạy cùng trường với thằng Đức, và
đứa út, thằng Hoàng, một khoa học gia không gian, làm việc tại Texas.
Bà Thủy chưa có cháu. Nàng dâu độc nhất của bà là bác sĩ Agatha Trần,
người Anh, vợ của giáo sư thạc sĩ Đức. Thằng Châu đang đính hôn với cô
Lý Lệ Bông, nhà vô địch trợt tuyết của Trung Cộng. Con Oanh thương một
nhà thơ Nhật, thĩ sĩ Satoru, chuyên viết bình luận cho tờ Boston Globe.
Thằng Hoàng đầu để trên Hỏa Tinh, chân không chạm đất, và chưa bao giờ
nhận ra là trên mặt quả cầu còn có phái nữ mà nó có thể cưới làm vợ.
Nó tính toán chính xác từng phút khoảng thời gian cần thiết để một
chiếc vệ tinh bay từ Texas đến quỷ đạo của Hỏa Tinh, ngôi tinh tú mà nó
đang là một trong những khoa học gia phụ trách chương trình nghiên
cứu. Nhưng nó sẽ phải mở sổ ra coi nếu có ai hỏi số tiền nó đang có
trong chương mục ngân hàng, hoặc số điện thoại của mẹ.
Bà Thủy không có một khó khăn nhỏ nào trong những liên hệ với các con,
với cô dâu Ăng Lê, cô dâu tương lai Trung Cộng và cậu rể tương lai Phú
Sĩ Sơn. Bẩy người này đều yêu thương bà và mỗi năm 4 lần biểu lộ tình
thương bằng những lời chúc tụng và quà cáp qua 4 dịp: Sinh nhật bà,
ngày Từ mẫu, ngày Giáng Sinh và ngày Tết âm lịch.
Không có những khó khăn nhỏ, nhưng bà đang dấu một khó khăn lớn: cuộc
tình cuối đời của bà. Bà van vái cuộc tình này không chạm vào những cảm
quan căn bản của con, và gây cho chúng những xúc động quá đáng. Bà tự
hiểu thái độ không vui của chúng sẽ là cái giá mà bà không nhận trả để
tiếp tục duy trì cuộc tình mà bà vô cùng trân quý. Đó là trở ngại duy
nhất.
"ANH XƠI LƯNG bát nữa", bà Thủy mời, mặc dù bà biết ông Chương không ăn
nữa. Mỗi bữa ông chỉ ăn hai chén cơm. Thêm một chén rau và một pao cá
nữa cũng vừa no. Giá sinh hoạt tại thành phố Biloxi rất rẻ. Hai người
ăn uống đầy đủ cũng không tốn kém nhiều hơn mười đồng mỗi ngày. Tiền
hưu trí của họ thừa thãi bảo đảm cho họ một cuộc sống vô lo cho đến
miên viễn.
Ông Chương không hút thuốc, không uống rượu. Số tiền phung phí duy nhất
của ông là $600 tiền mướn căn phố số 913, mười sáu tầng thấp hơn căn
phố số 2513 mà ông đang ngồi ăn cơm. Cả tháng ông không về đến phòng ông
một lần. Quần áo, giấy tờ của ông, ông để cả trên này. Thơ từ ông nhận
qua thùng thơ.
Tất cả những gì trong hai cuộc đời đều đã bỏ chung vào một, trừ chương
mục ngân hàng và hai căn phố. Họ tránh không đả động đến chuyện này,
cũng như chưa bao giờ họ đề cập đến việc hợp thức hóa liên hệ đã 99
phần trăm mang tính chất vợ chồng của họ. Phần trăm còn lại là công bố
liên hệ tình cảm của họ với 4 đứa con bà.
"Để em gọt xoài anh dùng tráng miệng", giọng người đàn bà Hà Nội lần này ngọt hơn miếng xoài ông Chương chưa ăn.
Bà vói tay định lấy quả xoài trong cái làn mây nhỏ đựng trái cây đặt
trên đầu bàn thi chuông điện thoại reo. Cánh tay bà ngừng đứng. Khuôn
mặt ông nghiêm trọng.
"Chắc mấy đứa nhỏ", bà vừa nói vừa đứng dạy đi lại tủ sách, trên mặt tủ chiếc điện thoại đang reo đến tiếng thứ ba.
Bà Thủy vừa cất tiếng là Oanh reo lên, "Mommy. I miss you", tiếng nàng
rõ đến mức ngồi khá xa ông Chương vẫn nghe rõ. "Ngày mai con về ăn tết
với Mommy".
"Con đi hãng máy bay nào? Mấy giờ tới để má đi rước".
"Con take American Airlines, flight 107. Arrival time at Gulf Port
Airport là 11:15. Nhưng má đừng rước, con có rent-a-car included trong
package rồi".
"Satoru có về với con không?"
"He has no vacation. Con về một mình. Nó muốn join con lắm, nó thích
cái giao thừa tradition của mình. Nó xuống rước con ngày week end."
Bà Thủy cười vì cách nói tiếng Việt ba rọi của cô con gái cưng. "Mai má làm món mắm thái thịt luộc cho con ăn."
"Con thích ăn mắm. Cảm ơn má nhớ món preferred của con. See you tomorrow".
Mặc dù ngôn ngữ pha trộn nhưng cuộc điện đàm ngắn vẫn chuyên chở đầy đủ
tình cô con gái thương mẹ. Oanh chào đời tại Biloxi, một năm sau ngày
mất nước. Nói theo ngôn từ của dân chài thì nàng sanh dưới nước. Ba chữ
này có nghĩa là Oanh là con của một ngư phủ, sanh ra để trở thành ngư
phủ.
Đặt ống nói xuống, bà Thủy bảo ông Chương điều ông đã nghe, và đã đoán hiểu, "Ngày mai con Oanh về ăn tết với em".
"Mừng em. Anh biết em nhớ con", ông Chương nói mừng nhưng giọng ông
không nghe mừng. Bà Thủy nhận ra ngay và hiểu nguyên nhân nỗi buồn của
ông: ông sẽ cô độc trong những ngày đầu năm.
"Con Oanh chỉ ở đây vài ngày", bà an ủi ông. "Cuối tuần thằng Satoru xuống đón nó".
"Con về thăm em là chuyện vui. Anh mừng cho em. Sáng sớm mai anh dọn
xuống dưới cho rộng chỗ". Ông làm như chỉ vì thiếu chỗ mà ông nhường chỗ
cho Oanh. Nhưng dĩ nhiên lý do ông dọn ra không phải là nhu cầu khoảng
trống.
Căn phố 2513 hai phòng. Hai ông bà chỉ xử dụng có một phòng, phòng kia
là phòng vãng lai vẫn luôn luôn bỏ trống. Ngoài giường ngủ, bà Thủy còn
kê thêm bộ computer để tối tối liên lạc email với con. Điều trớ trêu là
khách xử dụng phòng vãng lai lại không ai khác hơn là các con bà, do
đó, hễ có khách là không thể có ông Chương. Ít nhất tình trạng đó cũng
sẽ còn kéo dài đến ngày nào bà nói được với con việc tái giá.
Ông Chương xuống căn 913 để nhường chỗ cho Oanh. Nhu cầu nhường nhịn có
thật, nhưng chỗ nhường không phải là trong không gian mà là trên tình
cảm. Oanh không chiếm chỗ của ông trong căn phố, chỗ cô chiếm là trong
tình cảm của bà mẹ.
"Xin anh đừng buồn", bà Thủy bảo ông. "Nhường cho con vài ngày rồi nó lại trở về Boston".
Ông cười gượng, "Sao anh lại buồn? Anh hiểu nỗi khổ tâm của em. Anh yêu em".
Buớc nhanh xuống, không đóng cửa xe, cô "Mỹ con" ôm chầm lấy mẹ hôn dài. "I miss you, Mommy".
"Má thương con", câu trả lời điềm đạm hơn nhưng không kém thắm thiết.
Oanh buông mẹ ra, "Để con đem baggage xuống". Câu nói, nụ hôn, và cái
ôm không có gạch nối và dường như tự động, dễ dàng diễn ra. Người bàng
quang có thể cho là Oanh hơi máy móc, nhưng bà Thủy vẫn nhận đủ hơi ấm
tình mẹ con. Bà không đòi hỏi nhiều hơn nữa.
"Bỏ hành lý xuống đây, mẹ kéo lên lầu trước, con đem xe cất vào nhà xe
rồi lên sau". Bà đã quen thuộc đến mức không nhận ra thái độ và ngôn ngữ
rất ít Việt Nam của con. Bà tự an ủi là cái vỏ lai căng đó không quan
hệ ngày nào nó vẫn còn gói ghém tình thương của con cái. Oanh Mỹ hóa từ
từ, từng ngày một, trước cập mắt chứng kiến và chấp nhận của bà. Bà
thụ động chịu thua cuộc trong cuộc tranh chấp văn hóa mà đối tượng là
các con bà. Thế lực tranh chấp với bà quá mạnh. Trường học, bạn bè, môi
trường, truyền thông, ... tất cả đều tạo cho các con bà trở thành
những người Mỹ. Ảnh hưởng của bà nhỏ hơn. Nhưng bà thương con, dù nó
sống theo bất cứ lối nào. Tình thương của bà hoàn toàn không điều kiện.
Mặc dù phải cất xe, Oanh chỉ chậm hơn mẹ khoảng hai phút. Trẻ hơn mẹ 41
tuổi, cô nhanh nhẹn, mau mắn hơn rất nhiều. Bước qua ngưỡng cửa, cô
hinh hỉnh mũi rồi hỏi mẹ, "There is no mùi mắm?"
"Mắm thái có nấu đâu mà có mùi", bà Thủy bảo con. "Chắc con quên rồi, món mắm thái ăn cặp với thịt heo luộc đó".
"Ồ, I remember now. Món đó ngon lắm. Satoru nó ưa lắm, lần trước nó ăn ở đây".
"Con còn ở đây mấy ngày, mẹ nấu những món con vẫn thích cho con ăn".
"Ơ Boston có Vietnamese restaurant, nhưng nó không biết cook giống mẹ
cook đâu. Con thích nhiều món mẹ cook lắm, nhưng con không biết tên để
order nhà hàng".
"Mẹ biết con thích những món gì".
Oanh lại ôm mẹ, "I know that you know. Cảm ơn Mommy".
Lật cổ tay coi đồng hồ cô nói, "Còn sớm quá, mình xuống biển chơi. Con nhớ biển Biloxi".
Bãi biển nằm ngay trước cao ốc. Qua cửa sổ bà Thủy nhìn giải cát trắng
trải dài đến mút tầm mắt bên dưới. Trời lạnh nhưng nắng đẹp. Vài cánh
buồm màu sắc rực rỡ đang đẩy những con thuyền thể thao lướt sóng. Những
người chơi thuyền chấp nhận cái lạnh của mùa đông. Có thể tiết trời
này còn kích thích họ nữa. Nhưng giá lạnh không kích thích người tản bộ:
bờ biển vắng ngắt.
Bất chấp lạnh và vắng, bà Thủy chiều con. "Để mẹ mặc thêm cái áo ấm rồi mình đi", bà bảo con.
NHƯNG OANH KHÔNG ĐỊNH ĐI dạo biển như bà tưởng. Vào thang máy nàng
không nhấn L đề xuống lobby mà lại nhấn P.2 để thang ngừng ở nhà xe.
"Con đi dạo biển bằng xe à?" giọng bà Thủy hơi ngạc nhiên.
"Con xuống bến tầu South East. Con muốn nhìn lại cảnh cầu tầu".
South East là tên một hãng hải sản. Những hãng này thường làm một cầu
tầu bằng gỗ dài khoảng 30 thước, đủ cho chiều dài của hai chiếc tầu đậu
cặp mỗi bên. Tầu đậu cặp đôi, và đậu cả hai bên cầu nên thường xuyên có
tám chiếc buộc đỏi tại đó. Liên hệ giữa chủ hãng hải sản và chủ tầu là
liên hệ thương mại. Mặc dù không bị ràng buộc bởi khế ước hay khẩu
ước, nhưng tầu đậu cầu nào, bán tôm cho hãng hải sản đó, và nếu hãng có
cây dầu, nhà máy làm nước đá tầu cũng đổ dầu, mua đá tại hãng.
Không chủ tầu nào vi phạm khế ước ngầm này. Đi biển về, họ lái tầu
thẳng vào cái ụ quen thuộc, buộc đỏi, đem tôm lên hãng cân bán. Giá
tôm, giá dầu, và giá đá được toàn thể chủ hãng hải sản ấn định và đồng
loạt thi hành nên không có chênh lệch giá cả tạo ra tranh thương.
Ông Đại Dương đậu chiếc ngư thuyền Thái Thủy tại bến South East. Bà
Thủy thường dẫn con xuống cầu tầu đón chồng mỗi lần ông về bến. Trước
khi về ông luôn luôn báo tin trước. Tình yêu vợ và thói quen sinh hoạt
quân sự tạo cho ông cái nhu cầu liên lạc vô tuyến giữa chiếc ngư thuyền
đang lênh đênh trên mặt biển và gia đình ông trên bờ.
Ông đặt một máy vô tuyến ở nhà. Máy trên tầu thường xuyên mở vì nhu cầu
hải hành và ngư nghiệp nên bà có thể gọi ông bất cứ lúc nào cần gọi.
Nhưng dù không có chuyện gì bà cũng vẫn mở máy liên lạc với ông mỗi
ngày 3 lần vào những lúc 8 giờ sáng, 1 giờ trưa và 7 giờ tối. Ông chỉ
nói chuyện với con mỗi tối, vì những giờ liên lạc sáng và trưa, chúng
còn ở trong trường học. Gần 20 năm liên lạc vô tuyến với bố vào một
thời điểm nhất định đã tạo ra thói quen thân thuộc cho cả 4 đứa con
ông, nhất là cho Oanh, cô gái rượu mà ông cưng chiều. Oanh vẫn còn nhớ
hình ảnh hùng mạnh của bố, đứng trước mũi ghe, dùng tay ra thủ lệnh cho
người "bạn" lái tầu cặp bến. Khi tầu cập đủ gần cầu, ông ném đầu giây
đỏi lên cho Châu để cậu trai trưởng cột tầu.
Chỉ những ngày tầu về bến đúng dịp cuối tuần bà Thủy mới đưa con xuống
bến đón chồng. Ngày thường, bà xuống một mình. Do đó Oanh không nhìn
thấy hình ảnh sinh hoạt của bố nhiều bằng nàng nghe giọng ông trên máy.
Ông có thể hỏi nàng: Con hiểu phương trình đại số đó chưa? Phương
trình ông hỏi là để giải bài toán mà ông đã giảng cho con tối hôm trước,
khi Oanh nói với ông là nàng không làm được.
Ông hỏi từng đứa về chuyện học hành của chúng, và giờ liên lạc truyền
tin buổi tối giúp duy trì quan hệ mật thiết giữa người cha lênh đênh
trên biển cả và đàn con đang quây quần trên bàn học, quanh cái máy
radio.
"Radio communication là cái military nostalgy chót của ba", vừa đi với
mẹ trên cầu tầu, Oanh vừa hỏi. "Mommy có nghĩ vậy không?"
Điều bà Thủy đang nghĩ là nguyên nhân nào Oanh đưa bà xuống đây để nhắc
lại cái kỷ niệm liên lạc vô tuyến ngày trước. Phải chăng cô đã biết mối
tình giữa bà và ông Chương?
Chiếc ngư thuyền Thái Thủy cột đỏi ở cuối cầu. Chủ mới cũng là một ngư
phủ Việt Nam. Có thể vì ngại làm thủ tục đổi tên tầu nên ông ta vẫn giữ
nguyên cái tên Thái Thủy.
"The new owner không care vẽ đẹp the boat's name", Oanh nhận xét.
Trước kia ông Đại Dương sơn tên vợ lên mũi tầu bằng lối chữ viết thảo,
mầu tím trên nền trắng. Ông giải thích: "Năm 57 anh đem cô nữ sinh mực
tím xuống với sinh hoạt của Thái Bình Dương, năm 75 anh lại đem Thái
Thủy mực tím xuống Đại Tây Dương".
Không phải chờ đến việc ông đem tên bà đặt tên cho con tầu ngày đêm
cùng ông cỡi sóng, lướt gió bà mới ý thức được tình ông yêu bà vô cùng
nồng nàn, bền chặt. Bà nhận ra tình yêu của ông trong mọi sinh hoạt
hàng ngày, từ giọng nói cho đến ánh mắt ông nhìn bà. Nhưng bà Thủy cũng
biết là bà chỉ chiếm một phần ba tình cảm của ông. Ngoài bà, ông còn
yêu nước và yêu quân đội.
Gần 30 năm sống lưu vong, bà có dịp nhận ra là quân nhân Mỹ - và có thể
quân nhân thuộc mọi quốc gia khác - không yêu nước, yêu quân đội bằng
yêu vợ. Bà không thấy họ tha thiết, mải mê với việc phục vụ quân đội,
phục vụ đất nước đến mức quên và hy sinh cả vợ, con. Quân nhân Việt Nam
phục vụ như vậy. Nước Mỹ chưa bao giờ mất vào tay quân thù nên bà không
có tiêu chuẩn để so sánh tâm trạng của người Mỹ mất nước với tâm trạng
của chồng bà.
"Cái tầu looked indestructible", Oanh nhận xét. "Phải không Mommy?"
"Năm mới qua đây, ba con tự tay đóng lấy đó. Ba con lựa gỗ tốt, đóng dàn sườn kỹ lắm".
Bà Thủy vẫn phân vân chưa tìm ra nguyên nhân Oanh đưa bà xuống cầu tầu
South East. Cô đang nhắc bà là chiếc Thái Thủy còn đó, bà còn đó. Người
không còn nữa là bố cô.
"Sao con lại đưa mẹ xuống đây để nhắc đến ba?" bà hỏi con. Bà không
muốn kéo dài những ngờ vực ngỡ ngàng. Nếu Oanh đã biết chuyện tình của
bà với ông Chương, bà muốn cô biết thật đúng, thật rõ tâm trạng và hoàn
cảnh của bà.
"You ask me tại sao?" Oanh bật cười. "I don't know tại sao. May be tại
tết is reminding me about his lì xì". Giọng nói, tiếng cười và khuôn
mặt chân tình của con lập tức đập tan mọi ngờ vực trong lòng người mẹ.
Bà Thủy biết con bà không có tính nói quanh. Cả 4 đứa cùng không thích
quanh co. Chúng xử sự thẳng thắn, minh bạch.
CHỈ TỐI HÔM ĐÓ Oanh chứng minh cho mẹ thấy là bà không nhận xét lầm về tính nết của cô.
Chín giờ tối, sau bữa cơm chiều và dăm câu chuyện khào, Oanh vào căn
buồng vãng lai đã trở thành buồng ngủ của nàng. Lấy quần áo trong va li
ra treo vào tủ áo, nàng chưng hửng nhìn cái áo veste đàn ông trên móc.
Áo của bố ngày xưa? Oanh cầm áo lên và tin là không đúng size của bố.
Tò mò nàng thọc tay tìm túi ngoài, túi trong và vật nàng tìm được là
một tập cùi ngân phiếu mang tên người chủ chương mục là ông Lý văn
Chương.
Chưa suy luận một giây ngắn nào cả, Oanh chạy vội sang buồng mẹ, chìa cuồn ngân phiếu cũ ra hỏi: "Ong Chương nào vậy, Mommy?"
Bà Thủy không nhìn tập ngân phiếu mà nhìn thẳng vào mặt con. Nét ngay
thẳng buổi trưa vẫn còn nguyên đó. Khuôn mặt vô tâm chỉ đang biến đổi
dần theo thái độ im lặng của mẹ.
"Who ông Chương is, Mommy?" giọng Oanh cấp bách hơn. "His suit is in my closet".
"Con ngồi xuống đây, mẹ nói hết cho con nghe".
Bà Thủy nói hết. Bà nói rất thành thật. Giọng bà nghẹn lại khi bà đề
cập đến những buổi tối trống vắng, dài vô tận mà bà đã câm lặng chịu
đựng.
Oanh ôm chầm lấy mẹ. "Poor Mommy. I love you."
"Con có tha thứ cho mẹ không?"
"Who am I to accuse you? Mommy". Oanh nói. "I love you. I now love you
much more than before you told me about your loneliness."
NƯA ĐÊM,
Bà Thủy cúng giao thừa một mình. Ngày còn nhỏ Oanh rất thích thức khuya chờ xem mẹ cúng.
Đêm nay cửa phòng nàng đóng chặt. Bà Thủy nghe văng vẳng có tiếng nàng
nói. Bà nghĩ Oanh điện thoại cho anh, em cô về chuyện tình của mẹ mà
nàng vừa biết.
Bà cũng điện thoại. Giọng thì thào bà bảo ông Chương: "Con nó biết rồi.
Em cũng đã nói hết mọi điều cho nó nghe. Anh biết tại sao nó biết
không?" Bà kể cho ông nghe chuyện cái áo ông bỏ quên trên móc.
"Anh xin lỗi em", tiếng ông Chương thoang thoảng như tiếng gió ngoài Vịnh Mễ Tây Cơ. "Anh vô ý quá."
"Việc đã rồi. Vả lại em cũng không có ý dấu con mãi mãi."
"Anh muốn có mặt bên em trong lúc này. Anh muốn ôm em vào lòng, muốn hôn em để cùng chia những lo lắng của em."
"Em cũng thèm như vậy lắm", bà Thủy nói như rít lên. Thèm muốn được
tiếng rít diễn tả đầy đủ hơn khả năng hạn hẹp của ngôn ngữ để nói lên
cảm giác thật bà đang sống. "Con nó khóa kín cửa buồng lại. Nó đang nói
chuyện bằng điện thoại cầm tay của nó. Nhưng nó có thể mở cửa ra bất
cứ lúc nào."
Bà Thủy muốn bà có mặt lúc Oanh mở cửa. Nhưng bà cũng muốn ra thang máy xuống tầng lầu 9 tìm người yêu.
TRONG BỮA CƠM TRƯA mồng một tết Oanh nói với mẹ: "Please invite ông Chương to our dinner tonight at nhà hàng Michell, Mommy."
Bà Thủy vui mừng nhưng không muốn tỏ ra cho con thấy. "Cảm ơn con," bà vừa nói vừa nhìn con. "Mẹ sẽ mời ổng."
"You are very welcome, Mommy."
Câu nói nghe khách sáo nhưng bà Thủy tin là Oanh xúc động nhiều hơn vẻ lịch sự bên ngoài.
Oanh nói tiếp: "Dinner lúc 8 giờ. Con tới đó trước. You come later with ông Chương."
"Sao con không cùng đi?"
"I'm the host, Oanh nói. "I want to be there trước để lo that every thing is right."
Bà Thủy cười vì cái cung cách ngoại lai của con. "Mẹ mày", bà chửi yêu.
Người đàn bà trẻ bị Mỹ hóa vẫn hiểu cái nghĩa âu yếm của tiếng chửi. "I love you, Mommy", Oanh vừa nói vừa hôn mẹ.
"ANH HÌNH DUNG thử thái độ của Oanh sẽ như thế nào?" Giọng bà Thủy lo lắng.
Xe đã vào đến bãi đậu của nhà hàng, ông Chương cẩn thận lui vào khoảng
trống giữa hai cái xe đã đậu trước. "Anh nghĩ Oanh nó sẽ không phản đối.
Nó mời anh ăn tết là chỉ dấu tốt." Ông Chương nói cứng để người yêu
vững bụng. Giọng ông không phản ánh nội dung câu nói.
Bà Thủy bám ngay vào cái phao lạc quan này: "Em van vái là con nó đừng
buồn. Nó buồn, nó khổ, chắc em chết mất. Em thương nó lắm."
Ông Chương đưa tay choàng ngang lưng bà. Ông dìu bà, và bà yếu đuối dựa
vào vòng tay dìu dặt của ông. Cánh cửa tự động của nhà hàng mở rộng
đón mời họ. Người quản lý đứng sẵn, có vẻ đang chờ họ. Trịnh trọng đưa
tay trong cử chỉ hướng dẫn, ông ta nói: "Xin mời ông bà đi thẳng vào
phòng ăn riêng," vừa nói ông vừa lăng xăng đi trước mở cửa.
Ông Chương nghe cơ thể người yêu run rẩy trong vòng tay ông. Bà hồi hộp. Vòng tay nâng đỡ siết lại chặt chẽ hơn, cam kết hơn.
Bản nhạc "Here Comes the Bride" trổi lên, không bằng âm điệu mà qua
giọng hợp ca của 7 người trẻ, nam có, nữ có, Việt có, Nhật có, Anh có.
Bẩy người đứng thành một hàng ngang, cả bẩy khuôn mặt cùng nghiêm chỉnh
như họ đang hát quốc ca.
Bà Thủy chết lặng. Bà lựng khựng không biết phải nói gì, phải làm gì.
Thằng Châu, con trưởng của bà, trang trọng nói: "Chúng con kính chúc má và dượng Chương trăm năm hạnh phúc."
Mọi người vỗ tay. Ngoài trước cửa nhà hàng một giây pháo 15,000 viên
bắt đầu phát nổ. Bà Thủy thầm cảm ơn tràng pháo giúp bà vài phút để dằn
cho xúc động lắng xuống. Nếu phải trả lời con ngay lập tức, chắc bà sẽ
òa lên khóc vì cảm động. Giây pháo dứt, bà cất tiếng: "Mẹ cảm ơn các
con đã đồng ý cho mẹ lập lại cuộc đời. Mẹ không muốn tạo cảnh khó xử cho
các con, nhưng quả thực mẹ không chịu nổi những buổi tối cô quạnh quá
dài, quá nặng nề..." bà lựng khựng, không tìm được lời để mô tả tâm
trạng của mình.
Thằng Hoàng, nhà khoa học gia không gian, lên tiếng: "You don't need our consent. Mommy vui, con vui."
Cô dâu Agatha chạy lại nắm tay bà: "Thủy, we are very happy because you are."
Oanh cầm nĩa gõ lên miệng ly. Sáu người kia tưng bừng gõ theo. Họ đòi
cô dâu chú rể hôn nhau. Thủy ngượng nghịu quay lại nhìn Chương. Ông
trịnh trọng nói: "Anh yêu em", rồi quay ra nói chung với mọi người, "Tôi
thành thật cảm ơn quý anh quý chị đã nhận tôi vào gia đình của quý
anh, quý chị. Tôi hứa làm tất cả những gì trong sức tôi để bảo đảm hạnh
phúc trọn khúc cuối cuộc đời của Thủy."
Cúi xuống ông trang trọng hôn trên môi người yêu. Nụ hôn thật dài mà cũng thật say đắm.
Nguyễn Đạt Thịnh
Muốn biết tuổi của người cho mình số phone thì cứ theo cách này mà tính nhẩm nhé.
Cám ơn anh Khải Trần đã sưu tầm bài và tiếp chuyển.
Caroline Thanh Hương
Nhiều
người vẫn chưa tin việc số điện thoại và tuổi thật của mình có một mối
liên quan mật thiết với nhau. Tuy nhiên, với trải nghiệm vui này, bạn sẽ
thấy số điện thoại không chỉ đơn thuần là phương thức liên lạc mà còn
thể hiện nhiều điều hơn thế.
Chỉ với vài phép tính toán đơn giản sau bạn sẽ chứng minh được "mối lương duyên" giữa số điện thoại và tuổi đời của mình.
|
Chỉ với vài phép tính toán đơn giản sau bạn sẽ chứng minh được "mối lương duyên" giữa số điện thoại và tuổi đời của mình. |
Các bước thực hiện như sau:
1. Đầu tiên bạn lấy 2 số cuối của số điện thoại mà bạn đang sử dụng
2. Nhân số đó với 2.
3. Lấy kết quả vừa có ở phép tính trên cộng với 5.
4. Sau đó nhân thêm với 50.
5. Lấy kết quả đó cộng thêm với 1766
6. Lấy kết quả có được ở bước trên trừ cho năm sinh của bạn
Hãy nhìn vào kết quả cuối cùng, 2 số cuối sẽ là số tuổi của bạn và 2 số đầu là 2 số cuối điện thoại của bạn!
Sau
khi thử bạn đừng hoảng hốt là vì sao nó lại chính xác đến thế nhé! Tuy
nhiên, qua tìm hiểu thì sự "liên hệ" ngẫu nhiên này đến từ một thuật
toán vui mà thôi.
Lê Hường (tổng hợp)
Cám ơn anh Thanh Thanh đã gửi bài thơ và bài dic̣h thật hay.
Caroline Thanh Hương
BIẾT TRẢ LỜI SAO!
Như chúng anh đây trước cũng học trò,
Tắm sông, đánh đáo, thò lò mũi xanh.
Nhớn lên ra chốn thị thành,
Làng nhàng vừa học, vừa hành anh lại vừa chơi!
Đêm đêm kèm trẻ cầm hơi,
Văn khoa, trường luật...chán thời lại đến em dê!
Gái trai sớm tối rượu chè
Bạn bè cười cợt chọc quê xa gần,
Nổi sùng quảng bút tòng quân,
Ôm em mười sáu (M16) xỏ quần nhà binh,
Kẻ thù, chiến hữu, tử sinh,
Lạc vào đất Trích, buồn tình anh mới mần thơ...
*
Lũ con anh đôi lúc, nó vẫn hỏi bây giờ
Thế bố ơi khói lửa ngày xưa làm gì?
Trả lời sao? Nói năng chi!
Giá trong bom đạn chết vì núi sông!
Có khi bất tử, anh hùng!
NGUYỂN PHÚ LONG
HOW COULD I ANSWER
We too, as boys, in the past, did go to school;
Swimming, chuck-farthing, still used to drool.
Grown up, moved to the cities with friends staying,
We dragged on, half studying half playing.
Tutoring the younger to subsist was our nightly path;
Literature, law, then, when bored, general math.
Dissipation and insobriety round-the-clock
Caused friends far and near to jeer and mock.
Going berserk, we ejected the pen, also the mess,
To embrace the M-16, put on the battle dress.
Enemies, brothers-in-arms, life and death fighting...
Exiled, dejected, I have switched to poetry writing...
*
Sometimes my children nowadays have asked
Oh Dad, what did you do during the war in the past?
How could I answer them? What reply to yield?
If I died for our dear fatherland on the battlefield,
Maybe I was made an immortal hero unconcealed!
Kính mời quý anh chị thăm Blog Người Phương Nam
Mời đọc
Truyện ngắn đặc sắc
Bài học cuộc sống
Thơ tranh designed by Thêm Nguyễn & Đỗ Công Luận
Cười ý nhị
Người Phương Nam
Cám ơn chị Thanh Tuyền và anh Phú đã gửi bài của Blog Artshare tháng 8 năm 2016.
Caroline Thanh Hương
Kính chuyển.
Cuối hè rồi mà trời Đông-Bắc Hoa-Kỳ vẫn còn nóng nực quá.
Thân mời các bạn:
Đọc bài:
Có phải mùa hè là mùa dưa hấu?
Chọn lựa chúng như thế nào để có 1 quả vừa ngon, vừa ngọt, mời đọc bài sưu tầm của anh Phước Nhân.
Quả dưa có phần đáy rám vàng là quả dưa chín già, ngọt.
Đốm màu vàng - thường được gọi là vết rám - là nơi phần quả dưa hấu tiếp xúc với mặt đất. Quả dưa hấu chín luôn có đốm màu vàng kem, hay thậm chí vàng cam, chứ không phải là trắng bệch.
Chọn quả dưa có dấu ong châm.
Những vết màu nâu trên quả dưa nghĩa là ong đã tiếp xúc với bộ phận thụ phấn của hoa nhiều lần. Sự thụ phấn càng nhiều, trái cây càng ngọt.
Quả dưa "đực" và "cái".
Nhiều người không biết rằng: những người nông dân còn phân biệt dưa hấu theo giống: Chẳng hạn, những quả dưa "đực" thì to hơn, có hình thuôn dài và nhiều nước. Những quả dưa "cái" có hình tròn và rất ngọt.
Chú ý đến kích cỡ:
Tốt nhất là đừng nên chọn quả to nhất hay quả nhỏ nhất. Hãy chọn trái dưa hấu có kích cỡ trung bình. Ngoài ra, dù quả to hay nhỏ khi bạn nâng lên cần có cảm giác nặng tay.
Xem cuống dưa:
Cuống dưa khô cho thấy: quả dưa đã chín. Còn nếu cuống màu xanh, có thể quả dưa đã được hái quá sớm và vẫn chưa chín.