Bản đồ thế giới chỉ vị trí của châu Âu
Hình châu Âu tổng hợp từ vệ tinh
Châu Âu về mặt
địa chất và
địa lý là một
bán đảo hay
tiểu lục địa, hình thành nên phần cực tây của
đại lục Á-Âu, hay thậm chí
Âu Phi Á, tùy cách nhìn. Theo quy ước, nó được coi là một
lục địa, trong trường hợp này chỉ là một sự phân biệt thuần về văn hóa hơn là địa lý. phía bắc giáp
Bắc Băng Dương, phía tây giáp
Đại Tây Dương, phía nam giáp
Địa Trung Hải và
biển Đen, tuy nhiên về phía đông thì hiện không rõ ràng. Tuy nhiên có thể coi
dãy núi Ural được coi là vùng đất với địa lý và kiến tạo rõ rệt đánh dấu ranh giới giữa châu Á và châu Âu (xem chi tiết trong bài
Địa lý châu Âu). Khi được coi là một lục địa thì châu Âu thuộc loại nhỏ thứ hai trên thế giới về
diện tích, vào khoảng 10.600.000 km², và chỉ lớn hơn
Úc. Xét về
dân số thì nó là lục địa xếp thứ tư sau
châu Á,
châu Mỹ và
châu Phi. Dân số của châu Âu vào năm
2003 ước tính vào khoảng 799.466.000: chiếm vào khoảng một phần tám dân số thế giới.
Xét rộng ra thì từ này trong tiếng Hy Lạp gồm hai từ
eurys ("rộng") và
ops ("mặt"), tuy nhiên giả thuyết này không rõ ràng. Một số
nhà ngôn ngữ học đưa ra một giả thuyết khác dựa trên
nguồn gốc dân gian là từ này có gốc từ
tiếng Semit, bản thân lại mượn từ
erebu trong
tiếng Akkad, nghĩa là "mặt trời lặn" (tức phương Tây) (xem thêm
Erebus). Đứng từ phía
châu Á hay
Trung Đông thì đúng là Mặt Trời lặn ở phần đất châu Âu–mảnh đất phía tây. Cũng thế, tên gọi
châu Á có gốc từ
asu trong tiếng Akkad, nghĩa là "mặt trời mọc", chỉ vùng đất phía đông dưới góc nhìn của một người
Lưỡng Hà.
Bản đồ châu Âu chứa các liên kết, thể hiện các biên giới địa lý thông thường[3] (chú thích: đen = nằm hoàn toàn ở châu Âu; xanh lam = nằm trên cả châu Á và châu Âu; xanh lá cây = đôi khi được tính vào châu Âu nhưng theo địa lý nằm ngoài biên giới châu Âu)
-
Bạn phải thêm 1 tham số |lý do = để bản mẫu cần dọn dẹp này - thay thế nó bằng {{Cần dọn dẹp|Cần phân thành các tiểu mục để tiện theo dõi|lý do=<Điền vào lý do ở đây>}}
, hoặc gỡ bỏ bản mẫu cần dọn dẹp.
Châu Âu có một quá trình lịch sử xây dựng văn hóa và kinh tế tương đối lâu đời, có thể xét từ
Thời đại đồ đá cũ (
Paleolithic). Việc khám phá ra những viên đá hình bàn tay có độ tuổi cách đây 800.000 năm theo
phương pháp định tuổi cácbon mới đây tại
Monte Poggiolo,
Ý, có thể có những ý nghĩa đặc biệt.
Nền văn minh
Hy Lạp cổ đại được coi là "Bà mẹ của châu Âu".
[4] Tương truyền, người
Troia ở Tiểu Á đã bắt cóc vợ của vua
Menelaus người Hy Lạp. Để đáp trả, quân Hy Lạp vượt biển làm nên cuộc
chiến tranh thành Troia, và phá tan được thành này.
[5] Nền văn hóa Hy Lạp bấy giờ có biết bao nhiêu là anh tài xuất chúng như
Homer,
Hesiod,
Callinus người xứ Ephesus,
Xenophanes người xứ Colophon... về thi ca,
Aristotle và
Plato về
triết học,
Pythagoras người đảo Samos về
toán học,
Herodotos,
Thucydies,
Xenophon... về
sử học.
[6][7] Trong các thành bang Hy Lạp cổ, Nhà nước
chính trị đầu sỏ Sparta (Lacedaemon) thì tập trung xây dựng
chủ nghĩa quân phiệt, còn nước Cộng hòa
Athena dân chủ thì phát triển hoàng kim dưới thời cầm quyền của lãnh tụ
Perikles.
[4] Cũng có những Nhà nước quân chủ, tỷ như đảo
Samos của ông vua hải tặc
Polycrates, và cũng có những Nhà nước
độc tài, điển hình là các thành bang chư hầu của người Ba Tư ở
Tiểu Á (Từ năm 559 trước Công Nguyên vua
Cyrus Đại Đế khởi lập
Đế quốc Ba Tư và chinh phạt phần phía đông cũng nền văn minh Hy Lạp).
[7][8] Nhờ tài năng của mình, các chiến binh Hy Lạp ở châu Âu đã cầm chân và đánh tan tác quân xâm lược
Ba Tư trong những trận đánh lừng lẫy.
[8][9] Người Hy Lạp cũng tổ chức những kỳ
Hy Vận Hội trên núi
Olympus, trong đó có nhiều môn thi đấu.
[7] Người Athena kể từ thời Perikles là trung tâm của nền văn minh Hy Lạp xưa.
[7] Nhưng từ năm 431 trước Công Nguyên cho đến năm 404 trước Công Nguyên, người Sparta đánh Athena trong cuộc
Chiến tranh Peloponnesus dẫn đến sự suy sụp của thành bang Athena cũng như của chế độ dân chủ, thống soái Sparta là
Lysandros ca khúc khải hoàn.
[6] Tuy Athena nỗ lực hồi phục nhưng họ không thể nào làm đàn anh của thế giới Hy Lạp cổ nữa. Nhưng đến Sparta hùng mạnh cũng bị quân
Thebes đánh bại trong
trận Leuctra vào năm 371 trước Công Nguyên. Vào thế kỷ thứ IV trước
Công nguyên, khi tộc Hy Lạp cứ đánh nhau suốt mà không có ai làm bá chủ,
Vương quốc Macedonia vươn lên, vua
Philippos II xuất chinh đánh tan nát liên quân Athena - Thebes, dẫn đến sự kết liễu nền độc lập của các thành bang Hy Lạp.
[10] Vào thế kỷ thứ IV trước
Công nguyên, tộc Hy Lạp có
Vương quốc Macedonia vươn lên, vua
Alexandros Đại Đế (trị vì: 336 - 323 trước Công nguyên) mở rộng bờ cõi đất nước cho đến tận
sông Ấn trong một loạt cuộc chinh phạt lẫy lừng của ông, nhưng những cuộc chiến tranh liên miên này kết thúc sau khi ông qua đời.
[11]
Nhờ có Alexandros Đại Đế mà nền văn minh Hy Lạp truyền bá mạnh mẽ đến
Á châu, tạo nên các quốc gia
Hy Lạp hóa.
[11] Vào năm 753 trước Công nguyên, Vương quốc
La Mã ra đời với việc vua
Romulus gầy dựng "kinh thành vĩnh cửu"
La Mã.
[4] Sau khi lật đổ vua
Tarquin Kiêu hãnh và năm 510 trước Công Nguyên thì người La Mã thiết lập nền
Cộng hòa do các quan Tổng tài trị nước. Thoạt đầu họ
lâm chiến với
Vương quốc Ipiros do vua
Pyrros trị vì (282 - 272 trước Công nguyên), và dù ban đầu ông vua mạo hiểm này giữ được xứ
Syracuse,
[12] Syracuse thất thủ và nhà toán học lỗi lạc
Archimedes bị một tên lính La Mã giết hại trong trận chiến này (212 trước Công Nguyên).
[7] Trước vó ngựa của người La Mã, nền văn minh Hy Lạp cùng các quốc cuối cùng đã chinh phạt được nền văn minh Hy Lạp xưa, và dần dần tiêu diệt luôn cả các quốc gia Hy Lạp hóa.
[4] Thời bấy giờ,
Cicero là nhà hùng biện xuất sắc nhất của La Mã.
[12] Danh tướng
Julius Caesar thắng lớn trong các cuộc nội chiến La Mã, khi ông ta lên làm nhà
độc tài, có người cảm thấy lo sợ nền Cộng hòa sụp đổ nên đã lập mưu giết ông vào năm 44 trước Công Nguyên. Cuối cùng cháu ông là
Augustus lật đổ chế độ Cộng hòa và lên ngôi Hoàng đế, thành công vang dội trong việc thiết lập
Đế quốc La Mã.
[13] Vào năm
9, quân La Mã đại bại trong
trận chiến Teutoburg với các bộ lạc người German do tù trưởng
Hermann chỉ huy. Cuộc xâm lược
Đức của người La Mã hoàn toàn thất bại và chiến công hiển hách giải phóng Đức của Hermann đã mở đường cho sự phát triển riêng biệt của nền văn hóa dân tộc Đức.
[14] Nền văn minh La Mã sản sinh những nhân tài sử học như
Titus Livius,
Plutarchus.
[12] Cùng thời đó,
Ki-tô giáo cũng ra đời ở
Tây Á, với những lời giáo huấn của
Chúa Giêsu người xứ
Nazareth. Ngài bị đóng đinh tại
Jerusalem dưới triều Hoàng đế
Tiberius (trị vì:
14 -
37).
[15] Khi quân La Mã xâm lược đảo Anh, vị
Nữ hoàng tóc đỏ
Boudicca kêu gọi nhân dân kháng chiến, nhưng bị đánh bại.
[16] Đế quốc La Mã thái bình thạnh trị dưới các triều
Hoàng đế Nerva,
Traianus,
Hadrianus,
Antoninus Pius và
Marcus Aurelius từ năm
96 đến năm
180. Nerva cứu giúp người bần hàn, Traianus thì sáng suốt và có tài dụng binh, Hadrianus thì bảo trợ nghệ thuật và kiến trúc, Antoninus Pius thì hiển đức còn Marcus Aurelius thì quả là một ông vua - hiền triết đức độ, với tinh thần trách nhiệm cao.
[15] Người Goth (tộc German) tấn công La Mã vào năm
250 và hủy diệt quân đội của Hoàng đế
Decius, giết được cả Decius.
[13][17] Sau một thời kỳ đại loạn, Hoàng đế
Diocletianus (trị vì:
284 -
305) gầy dựng lại cơ đồ La Mã, xuất chinh thắng địch mang lại vẻ vang cho Đế quốc. Với các Hoàng đế
Domitianus, Marcus Aurelius, Decius và Diocletianus, Ki-tô giáo bị trấn áp tàn nhẫn. Cũng từ thời Diocletianus, Đế quốc La Mã bị chia cắt thành hai nước.
[15] Ông trị vì phần phía đông, từ đó khởi lập
Đế quốc Đông La Mã. Hoàng đế
Constantinus I Đại Đế dời đô về thành
Tân La Mã, từ đó thành La Mã không còn làm kinh đô của đát nước mà chính nó lập ra nữa.
[18] Với những chiến công hiển hách của Constantinus I Đại Đế, Đế quốc La Mã thống nhất.
[19] Cũng trong thời điểm này lần đầu tiên Ki-tô giáo trở thành quốc giáo của La Mã.
[20]
Người Goth càng ngày hùng mạnh làm Hoàng đế
Theodosius I Đại Đế phải gặp nhiều gian nan, để bảo vệ Đế quốc La Mã.
[21] Trong triều vua này Ki-tô giáo hoàn toàn là tôn giáo hợp pháp duy nhất của Đế quốc La Mã.
[22] Khi ông qua đời vào năm
395, Đế quốc La Mã không bao giờ được thống nhất nữa.
[23] Vào năm
410, khi có loạn người La Mã phải rời khỏi đảo Anh, tạo điều kiện cho nước Anh trỗi dậy.
[18] Vào năm
441, vua
Attila kéo đại binh
Hung Nô vào phá tan tành vài thành phố của người Tây La Mã, song quân Tây La Mã của danh tướng
Flavius Aetius hợp binh với vua người
Tây Goth là
Theodoric và đánh tan tác quân đội tinh nhuệ của Attila trong trận đánh lớn tại
Chalons (
451). Mối đe dọa từ người Hung Nô bị đẩy lùi.
[24] Trước cuộc tấn công của
người German,
Đế quốc Tây La Mã sụp đổ vào năm
476 đời Hoàng đế
Romulus Augustus.
[25] Từ đó, châu Âu đã bước vào một thời kỳ dài đầy biến động thường được biết đến dưới tên gọi
Thời kỳ Di cư. Thời kỳ đó còn gọi là "
Thời kỳ Đen tối" theo các nhà tư tưởng
Phục Hưng, và là "
Thời kỳ Trung cổ" theo các nhà sử học đương đại và những người thuộc phong trào
Khai sáng. Trong suốt thời gian này, các tu viện tại
Ireland và các nơi khác đã gìn giữ cẩn thận những kiến thức đã được ghi chép và thu thập trước đó. Đến năm
610,
người Avar và Quân đội Ba Tư tiến đánh Đế quốc Đông La Mã, Hoàng đế
Phocas không giữ được nước, bị
Heraclius hạ bệ. Là người có tài dụng binh, Heraclius phản công đại phá tan nát quân Ba Tư, Đế quốc Ba Tư đại bại vào năm
627. Nhưng đúng lúc đó, người
Ả Rập Hồi giáo trỗi dậy mãnh liệt dưới sự lãnh đạo của nhà tiên tri
Muhammad ở Tây Á. Vào năm
632, vó ngựa của người Ả Rập tung hoành trên Đế quốc Đông La Mã. Hoàng đế Heraclius xuất chinh, bị thảm bại tại
Yarmouk (
636).
[26] Vào năm
638, ông tiếp tục mất thành
Jerusalem về tay quân Ả Rập do
Khalip Omar thân chinh thống suất. Bước tiến của người Ả Rập vào Âu châu chỉ bị một bộc lạc người German là
người Frank do
Karl Búa Sắt chỉ huy chặn đứng tại
Tours (
732).
[22] Dưới triều vua
Karl I Đại Đế (trị vì
768 -
814),
Đế quốc Frank cường thịnh tung hoành ngang dọc khắp cõi Âu châu. Đế quốc Frank bấy giờ có cương thổ từ biển
Đại Tây Dương cho đến sông Danube, từ
Hà Lan cho đến
Provence. Ông cũng củng cố vùng núi
Pyrenees nhằm chống lại các cuộc cướp phá của quân Ả Rập. Vào năm
800,
Giáo hoàng Lêô III tấn phong Karl I Đại Đế làm Hoàng đế. Từ đây, một Đế quốc Ki-tô giáo ở Tây phương được hình thành, độc lập với Đế quốc Đông La Mã. Chế độ
phong kiến được dựng xây, người Frank bấy giờ coi như đã hợp nhất Âu châu, nhưng sự thống nhất này cũng tan thành mây khói sau khi Hoàng đế Karl I qua đời. Các vua kế tục Karl I Đại Đế đánh lẫn nhau, và theo
Hiệp định Verdun (
843) thì các quốc gia
Đức và
Pháp ra đời.
[27]
Vua
Heinrich der Finkle (trị vì:
912 - 936) là người có công đưa nước Đức trở thành một
liệt cường của châu Âu thời Trung Cổ. Ông ngự tại kinh thành
Mamleben ở vùng núi Harz, và chinh đông, dựng xây các thành phố đồng thời ngăn chặn những cuộc xâm lược của
người Magyar,
người Slavơ và ngưới
Đan Mạch. Con ông là vua
Otto I người xứ Sachsen (trị vì:
936 -
973) xuất chinh đập tan tác quân xâm lược Magyar trong
trận Lechfeld vang danh (
955). Bước tiến công của người Magyar vào châu Âu hoàn toàn bị đẩy lùi. Sau chiến công hiển hách, vua Otto I được
Giáo hoàng Gioan XIII tấn phong làm Hoàng đế, từ đây khởi lập
Đế quốc La Mã Thần thánh. Trong khi ấy, Đế quốc Đông La Mã hưng thịnh với Hoàng đế
Basil I (trị vì:
867 -
886), người có tài trị quốc đã củng cố sự vững mạnh của Đế quốc. Các Hoàng đế
Leōn VI ho Sophos (
886 -
912) và
Kōnstantinos VII Porphyrogennētos (trị vì:
913 -
959) đưa kinh kỳ Constantinopolis trở nên phồn vinh và khuếch trương
thương mại.
[28] Thời bấy giờ, ở vùng
Balkan một quốc gia hùng mạnh trỗi dậy, trở thành kẻ kình địch của Đế quốc Đông La Mã. Đó là
Đệ nhất đế chế Bulgaria, do các thủ lĩnh dũng mãnh
Terbel,
Crum và
Omartag khởi lập. Người Bulgaria theo Ki-tô giáo Chính Thống, nhưng điều này không thể ngăn họ đánh nhau với người Đông La Mã. Sa hoàng Crum đã tuyên chiến với người Đông La Mã, tiêu diệt Hoàng đế
Nicephorus I Dưới triều
Sa hoàng Simeon I (trị vì:
893 -
927), ông xưng "Quốc vương và Đấng cầm quyền chuyên chính của người Hy Lạp và Bulgaria", khởi binh đánh thành Constantinopolis nhưng thất bại (
924).
[29] Sang đời Sa hoàng
Samuel (trị vì:
927 -
1014), ông dời đô về thành
Ochrid tráng lệ. Hoàng đế Basil II đánh tan tác quân Bulgaria, lại còn đui mù đám tù binh, làm cho Samuel đau khổ và chết. Trong thời gian đó, vào năm
997,
István I lên làm thủ lĩnh của người Magyar, sáng lập Vương quốc
Hungary vào năm
1001[30] Từ thập niên
1030,
người Thổ Seljuk hưng thịnh lên, liền tiến công Đế quốc Đông La Mã và thắng trận lớn ở
Manzikert gần
hồ Van (
1071).
[31] Họ còn xâm phạm đến Vương quốc
Gruzia hùng mạnh của vua
David IV (trị vì:
1089 -
1125), nhưng ông xuất chinh đánh lui quân Seljuk ra khỏi kinh đô
Tbilisi. Dưới triều Nữ vương
Tamara, cung đình Gruzia bước vào giai đoạn hoàng kim. Văn hóa nở rộ, nhà thi hào Shot'ha Rust'aveli - từng được giáo dưỡng tại Hy Lạp - làm quan trong Triều đình Tamara và được coi là người tiếp bước cho cao trào Phục Hưng. Trước bước tiến mãnh liệt của người Thổ Seljuk, từ năm
1096 cho đến năm
1291, người Ki-tô giáo phải tiến hành tám cuộc
Thập tự chinh lớn và nhiều cuộc chiến nhỏ chống người Ả Rập và người Seljuk. Một ví dụ điển hình là cuộc
Thập tự chinh lần thứ ba do vua Anh
Richard I, vua Pháp
Philippe II Auguste và Hoàng đế La Mã Thần thánh
Friedrich Barbarossa tiến hành, thất bại trong việc giành lại
Jerusalem từ tay người Ả Rập. Cháu của Friedrich I Barbarossa là
Friedrich II (trị vì:
1211 -
1250) vừa giữa nghiệp đế vừa làm vua xứ
Sicilia.
[31] Là một "Kỳ nhân thiên hạ" (
stupor mundi) ông khuếch trương nền văn hóa, đặt mầm mống cho
thời kỳ Phục Hưng. Trong Đế quốc La Mã Thần thánh rộng lớn, Hoàng đế cũng muốn gầy dựng một nền thái binh thịnh trị.
[32] Sau thời ông thì Ý cũng có một nhân tài xuất sắc của nền thi ca Trung Cổ là nhà thi hào
Dante Alighieri (
1265 -
1320).
[33] Trong khi đó, vua Anh là
John Lackland (trị vì:
1199 -
1216) bị mất xứ
Normandy về tay người Pháp sau thất bại trong
trận Bouvines (
1214). Vào năm
1215, triều thần Anh ép John Lackland phải ký kết "
Đại Hiến chương" (
1215), mở ra truyền thống dân chủ của nước Anh.
[31][34]
Đời vua
Edward III (trị vì:
1327 -
1377), nước Anh lâm vào cuộc
Chiến tranh Một trăm năm tàn khốc.
[35] Đây là một cuộc chiến có nhiều giai đoạn lẻ tẻ. Ông ngự giá thân chinh hủy diệt thủy binh Pháp trong
trận Sluys (
1340), sau đó liên tiếp đánh bại quân Pháp trong
trận Cressy vào năm
1346 và
trận Poitiers vào năm
1356. Vua
Henry V cũng xuất chinh đại phá quân Pháp trong
trận Agincourt vào năm
1415. Trong
trận Castillion vào năm
1453 quân Anh đại bại và cuộc chiến tranh mới chấm dứt. Nhưng vào năm
1475, vua
Edward IV thân chinh khởi binh đánh Pháp, buộc người Pháp phải triều cống cho Vương quốc Anh.
[36] Cũng trong thời bấy giờ, khi người Thổ Seljuk suy sụp, người
Thổ Ottoman trỗi dậy với
Sultan Osman I (trị vì:
1281 -
1326). Trước vó ngựa khủng khiếp của người Thổ Ottoman,
Đệ nhị đế chế Bulgaria đại bại phải chấp nhận làm chư hầu cho họ vào năm
1366. Tiếp theo đó, quân Ottoman hủy diệt quân đội
Serbia trong
trận Kosovo (
1389) ác liệt. Sau cùng, Bulgaria bị sáp nhập vào Đế quốc Ottoman. Vào năm
1396, vua Hungary là
Sigismund tổ chức Thập tự chinh, bị Sultan
Bayezid I đánh cho đại bại trong
trận Nicopolis trên sông Danube.
[37] Sau khi Sultan
Murad II đánh tan tác một cuộc Thập tự chinh trong
trận Varna (
1444), Sultan
Mehmed II công thành Constantinopolis và kết liễu Đế quốc Đông La Mã.
[38] Thời bấy giờ,
nhà Habsurg của các
Đại Quận công Áo lên làm Hoàng đế La Mã Thần thánh, đóng đô tại thành
Viên.
[39][40] Đại Quận công Áo Karl lên ngôi Hoàng đế tức
Karl V vào năm
1519. Vào năm
1526, ông trị vì một Đế quốc rộng lớn hơn bất kỳ một Đế quốc nào trong lịch sử Âu châu kể từ thời Karl I Đại Đế.
[41] Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh đại thắng trong
trận chiến Pavia chống vua Pháp là
François I vào năm 1526.
[42] Nhưng cũng trong thời này, ngọn lửa của phong trào
Kháng Cách bùng lên với nhà thần học Đức lừng danh
Martin Luther (
1483 -
1546). Vào năm
1517, ông dán "
95 luận đề" tố cáo việc Giáo hoàng sử dụng
phép ân xá (
indulgence) trên cửa Thành trị - Giáo đường
Wittenberg. Phong trào Kháng Cách có lối suy nghĩ khác với thần học Trung Cổ về việc Thiên Chúa cứu rỗi các linh hồn khỏi tội lỗi. Điều này khiến Triều đình Karl V phải bận tâm vào việc trừng trị Kháng Cách.
[43] Nhưng một nhóm Vương hầu người Đức cũng đứng về phe Luther cả.
[44] Người
Bắc Âu nhanh chóng tiếp nhận tư tưởng này.
[45]
Trong khi ấy, việc các danh sĩ Đông La Mã chạy sang
Ý sau khi kinh kỳ Constantinopolis thất thủ đã tạo nên phong trào
Phục Hưng ở các nước phương Tây, là sự hồi phục của hai nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại, qua văn chương và nghệ thuật. Kiến trúc Âu châu thời đại này đã trở về về với lối kiến trúc Hy Lạp - La Mã xưa. Những công trình tiêu biểu của trào lưu Phục Hưng là cung điện và văn phòng công cộng.
[46] Một trong những danh nhân tiêu biểu của phong trào văn hóa Phục Hưng là nhà họa sĩ người Ý
Leonardo da Vinci (
1452 -
1519). Trào lưu văn hóa Phục Hưng là ảnh hưởng hoàn toàn không nhỏ đối với lối suy nghĩ của người Âu châu và cùng với phong trào Kháng Cách mở ra
thời kỳ cận đại.
[47] Nhưng trào lưu này ít được đón nhận ở các nước thuộc Đế quốc Ottoman, và có chúc ít công trình kiến trúc tại Đại Công quốc
Moskva.
[48] Đời Sultan
Selim I (trị vì:
1520 -
1520), Đế quốc Ottoman tạm thời không còn là mối lo ngại của người Âu châu nữa do họ chuyển sang đánh các nước Tây Á và
Bắc Phi. Con của Selim I là vị Sultan kiêu hùng.
Suleiman I (trị vì: 1520 -
1566), quân Ottoman lại phát động Thánh chiến chống các nước Ki-tô giáo, chinh phạt thành
Beograd và đảo
Rhodes. Người Hungary bị mất vua, mất nước. Em của Hoàng đế Karl V là
Ferdinand I lên làm vua của một phần đất Hungary, tiếp tục cuộc tranh hùng Áo - Ottoman.
[41] Suleiman I thân hành kéo đại quân đến đánh kinh thành Viên nhưng thất bại vào năm
1529.
[49] Khi đó, tại Đại Công quốc Moskva,
Ivan IV (trị vì:
1533 -
1584) xưng làm
Sa hoàng, khởi lập
nước Nga Sa hoàng. Là ông vua hùng tài đại lược, ông thân chinh đánh người Kazan vào năm
1547 và với chiến thắng trong cuộc chiến này, nước Nga mở mang cương thổ đến miền
Xibia. Quân Nga cũng chiếm lĩnh xứ
Astrakhan.
[50]
Trong thời đại này có hai biến cố lớn:
Christopher Columbus tìm ra
châu Mỹ, đồng thời người châu Âu đã vượt được
mũi Hảo Vọng. Qua đó, châu Âu có tầm nhìn ra ngoài thế giới, tài năng của các nhà hàng hải để giúp cho người châu Âu bắt đầu vượt biển mà tiến hành
chủ nghĩa thực dân.
[51] Các
Đế quốc Tây Ban Nha và
Bồ Đào Nha cũng tiến hành khai phá thuộc địa, chiếm lĩnh được không ít đất đai ở
châu Mỹ La Tinh.
[46] Tiếp theo là các nước
Pháp,
Hà Lan và
Anh đã hình thành nên các Đế quốc thực dân với bạt ngàn đất đai và tài sản tại
châu Phi,
châu Mỹ, và
châu Á. Trong khi ấy, Đế quốc Ottoman khuếch trương bành trướng và lâm chiến với
Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva vào năm
1620. Ban đầu, người Thổ Nhĩ Kỳ thắng lớn, nhưng sau đó quân
Kỵ binh Ba Lan phản công đánh tan nát đại quân Ottoman do đích thân Sultan
Osman II chỉ huy trong
trận Chocim (
1621).
[52] Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva - vốn là một nhà nước Cộng hòa có vua do dân bầu lên - cũng đạt đến đỉnh cao chói lọi.
[53] Cùng thời,
Đế quốc Thụy Điển vươn lên trở thành một liệt cường đáng gờm ở phương Bắc, với ông vua hùng tài đại lược
Gustav II Adolf (trị vì:
1617 -
1632), với một nền chính trị vững chắc, một lực lượng
Thủy binh hùng hậu và
Quân đội tinh nhuệ. Thấy nước Nga đang biến loạn, ông xuất chinh hạ được thành Gdov vào năm
1614. Vào năm
1617, Sa hoàng
Mikhail I Romanov phải nhượng đất đai cho Thụy Điển, đổi lại Nga giành lại được vùng
Novgorod vốn từng bị quân Thụy Điển xâm lăng.
[54] Sau đó, người Thụy Điển quay sang đánh bại Ba Lan - Litva (
1621).
[55] Quân Ba Lan hợp lực với Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh chặn chân quân Thụy Điển vào năm
1629, từ đó người Thụy Điển nhận thấy mối đe dọa từ người Áo. Trước đó, cuộc
Chiến tranh Ba Mươi năm đã bùng nổ giữa liên minh Công giáo do người Áo dẫn đầu và liên minh Kháng Cách trong Đế quốc La Mã Thần thánh. Vua
Đan Mạch là
Christian IV xuất binh sang Đức nhưng bị liên quân Công giáo đánh đại bại vào năm
1626. Do đó vào năm
1629, vua Gustav II Adolf ngự giá thân chinh cùng đại quân tiến vào Đức làm minh chủ của liên minh Kháng Cách. Sau nhiều trận thắng, Gustav II Adolf hy sinh. Người Pháp tuy theo Công giáo nhưng thù địch với Áo nên nhảy vào tham chiến, thành thử chiến tranh chấm dứt với
Hoà ước Westfalen vào năm
1648, Kháng Cách trường tồn.
[56] Thụy Điển và Pháp mở rộng bờ cõi.
[57] Vua
Louis XIV (trị vì:
1643 -
1715) là người có công gầy dựng Nhà nước
quân chủ chuyên chế ở Pháp. Trong thời đại này, Pháp là quốc gia hùng mạnh nhất ở Tây Âu.
[49] Trên khắp Âu châu, các nước học hỏi theo Nhà nước của Louis XIV.
[58] Trong cuộc
Chiến tranh Ủy thác (
1667 -
1668), ông ta đánh Tây Ban Nha để giành lấy vùng
Franche-Comté, và toàn thắng vào năm
1674.
[49] Nhưng vào năm
1690, vua Anh là
William III lập chiến công lừng lẫy đại phá liên quân Pháp - Ireland trong
trận Boyne.
[59]
Vào năm
1655, vua Thụy Điển là
Karl X thân hành dẫn quân tiến đánh Ba Lan.
[60] Là một chư hầu của Ba Lan, nhưng xứ
Brandenburg - Phổ (tộc
Đức, nằm trong Đế quốc La Mã Thần thánh) họp binh với quân
Transylvannia, quân Thụy Điển và quân Nga. Trong [[trận đánh Warsaw (1656), quân Ba Lan đại bại và đại binh Brandenburg -
Phổ do Tuyển hầu tước kiêm Quận công
Friedrich Wilhelm I Vĩ đại (trị vì:
1640 -
1688) thân hành thống suất đã chiến đấu mãnh liệt. Sau đó, ông buộc Ba Lan phải nhượng vùng
Đông Phổ và lui khỏi cuộc chiến.
[61] Quân Ba Lan đuổi được liên quân Nga - Thụy Điển, nhưng rồi sau cuộc chiến tình hình rối loạn làm Ba Lan, xứ Phổ - Brandenburg trở nên hùng cường, uy dũng.
[53] Xứ Phổ còn đe dọa mạnh mẽ đến sức mạnh quân sự của Thụy Điển.
[46] Quả nhiên, khi đại binh Thụy Điển (được Pháp giúp đỡ) sang xâm lược, các chiến binh dũng mãnh Phổ - Brandenburg đã đánh úp địch ở Rathenow, và đại phá địch trong
trận chiến Fehrbellin (
1675).
[61] Với Friedrich Wilhelm I Vĩ đại, người Phổ - Brandenburg cũng có được một bộ máy chính quyền hữu hiệu, Nhà nước quân chủ chuyên chế vững chắc.
[62] Vào năm
1683, quân Ottoman lại vây hãm kinh kỳ Viên, nhưng bị Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh và đại binh Ba Lan do ông vua đại tài
Jan III Sobieski đích thân chỉ huy đánh đại baị. Sau đó, Jan III Sobieski cùng Hoàng đế
Leopold I đánh đuổi người Thổ, quân Áo chiếm được Hungary.
[49]
Vào năm
1701, thấy thực lực đủ mạnh, Tuyển hầu tước Friedrich Wilhelm II xứ Brandenburg khởi lập
Vương quốc Phổ, lên làm vua
Friedrich I độc lập với người Áo. Ông xây dựng Quân đội cùng những cung điện nguy nga tráng lệ. Quân Phổ tham chiến cùng liên minh Anh - Áo -
Hà Lan chống Pháp trong cuộc
Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha tàn khốc (
1701 -
1713). Các danh tướng
Eugène xứ Savoie (Áo),
John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất (Anh) và
Vương công Leopold I xứ Anhalt-Dessau đều lập những chiến công hiển hách đập tan tành quân đội của Louis XIV, mang lại vinh quang cho nước nhà (tỷ như trong những trận đánh vang danh tại
Blenheim 1704 và
Cassano 1705).
[59][63] Sự suy sụp của Pháp tạo điều kiện cho các liệt cường mới mẻ vươn lên phát triển.
[64] Mở đầu là nước Nga, với Sa hoàng Pyotr Đại Đế đánh thắng người Ottoman (
1696). Ông còn liên minh với Đan Mạch, Sachsen và Ba Lan để đánh gục Đế quốc Thụy Điển của ông vua - chiến binh
Karl XII, nhưng cả ba nước lần lượt bị Thụy Điển đè bẹp. Trong khi Ba Lan suy sụp, Pyotr Đại Đế xuất chinh đại phá quân Thụy Điển trong
trận Poltava (
1709), lấy đất và giành địa vị liệt cường từ tay Thụy Điển.
[65] Song, người Ottoman vực dậy đánh đuổi được quân Nga. Không những trở thành liệt cường mà nước Nga còn được cải cách đổi mới.
Đế quốc Nga ra đời vào năm
1720 khi Pyotr Đại Đế xưng Hoàng đế.
[66]
Friedrich II của Phổ|Friedrich II Đại Đế]] (
1712 -
1786) là một trong những vị thống soái xuất sắc nhất trong lịch sử Âu châu.
[67] Ông còn là một nhà vua - hiền triết điển hình vào thời đó, đưa đất nước trở nên phồn thịnh.
[68]]]
Trong khi Đế quốc Nga là điển hình của một nước lớn uy dũng vươn lên bá chủ, thì Vương quốc Phổ lại là tấm gương của một nước nhỏ, dân số ít nhưng nhanh chóng phát triển mãnh liệt, tranh hùng tranh bá. Nhờ có vua
Friedrich Wilhelm I (trị vì:
1713 -
1740), người Phổ sở hữu một lực lượng hùng binh mãnh tướng siêu việt và một bộ máy hành chính hiệu quả,
xã hội được cải cách, nền
giáo dục đáng tự hào, thậm chí còn đoạt được đất đai của vua Thụy Điển Karl XII (
1721) để làm chủ cửa
sông Oder.
[63][65][66][69][70] Khi vị vua hùng tài đại lược
Friedrich II Đại Đế lên nối ngôi báu (trị vì: 1740 -
1786), nước Phổ đã có thể tranh hùng tranh bá.
[71] Khi Hoàng đế La Mã Thần thánh
Karl V qua đời và Công chúa
Maria Theresia lên làm Nữ hoàng nước Áo, vua Friedrich II Đại Đế thân chinh thống suất đại binh đánh tỉnh
Silesia trù phú của người Áo, mở ra cuộc
Chiến tranh Kế vị Áo (1740 -
1748).
[72] Phổ liên minh với Pháp, và Áo liên minh với Anh. Nhờ có tài dụng binh như thần của Friedrich II Đại Đế, quân Phổ lập nên nhiều chiến công huy hoàng của ông (tỷ như các
trận Hohenfriedberg và
Soor làm cả Âu châu phải thán phục,
[73] để rồi ông kết thúc thắng lợi cuộc chinh phạt Silesia vào ngày
Giáng sinh năm
1745, trước đó ông cũng chiếm lĩnh được cảng Emden vào năm
1744. Đồng thời, vua
George II thân chinh kéo đại binh đánh tan nát quân Pháp trong
trận Dettingen (
1743), đã thế thủy binh Anh cũng nghiền nát thủy binh Pháp trong
trận thủy chiến Ouessant (
1747) đưa nước Anh ngày càng hùng cường vào năm
1748 khi chiến sự chấm dứt, đồng thời Phổ vẫn giữ vững Silesia và trở thành liệt cường châu Âu.
[70][74][75][76]
Khi ấy, Nữ hoàng Nga là
Elizaveta hoảng hốt trước sự trỗi dậy như vũ bão của nước Phổ, thấy vậy Maria Theresia lập liên minh với Nga và Thụy Điển. Đồng thời, việc Phổ lập liên minh với Anh chống Pháp dẫn đến cuộc
Chiến tranh Bảy Năm (
1756 -
1763). Đương đầu với liên minh chống Phổ hùng hậu, vua Friedrich II Đại Đế chủ động ra tay, và tài cầm quân cùng với lòng quyết tâm của ông đã giúp quân Phổ lập nên những chiến thắng vang lừng như
trận Rossbach,
trận Leuthen (
1757) và
trận Liegnitz (1760), để rồi Phổ là quốc gia thắng trận trong cuộc chiến (1763).
[77][78] Đại bại trước quân Phổ trên bộ và quân Anh trên biển, Pháp bị khánh kiệt tả tơi sau cuộc chiến tranh này, do đó có thể thấy sự tiêu đời của Vương quốc Pháp mở đầu với cuộc chinh phạt Silesia của người Phổ vào năm 1740.
[79] Nước Anh thắng trận với những chiến công hiển hách như trận
thủy chiến vịnh Quiberon và trận thắng Pháp tại
Quebec ở
Bắc Mỹ (
1759), nhờ đó Anh lấy được nhiều đất đai.
[80][81] Nhưng rồi cả Anh và Pháp đều suy yếu trước sự vươn lên của các liệt cường phương Đông, mà điển hình là Phổ, Áo và Nga.
[82] Do là một nước nhỏ mà có thể đánh thắng liên quân các nước lớn láng giềng, nước Phổ của Friedrich II Đại Đế hoàn toàn là liệt cường Âu châu khi Chiến tranh Bảy Năm chấm dứt.
[83][84] Lúc ấy, lực lượng Quân đội Phổ tinh nhuệ trở thành đội quân thiện chiến nhất Âu châu, và dù họ nhiều lần bị Quân đội Nga đánh bại trong thời gian chiến tranh, đó chỉ là do Nga đông người hơn Phổ hẳn.
[81] Cá nhân của người lãnh đạo luôn đóng vai trò quan trọng, mà về mặt này Phổ được lợi lớn vì có vị vua xuất sắc Friedrich II Đại Đế là có tầm nhìn xa trông rộng, quyết đoán, là một "kỳ nhân của thiên hạ" (
stupor mundi) thời bấy giờ.
[65][85][86][87] Đồng thời, nước Nga tiến hành những cuộc chinh phạt lớn lao của vị
Nữ hoàng tài năng hơn người
Ekaterina II Đại Đế nước Nga (trị vì:
1762 -
1796). Vào năm
1772, với tài năng ngoại giao của mình, vua Phổ mang lại lợi ích cho nước nhà khi ông cùng Nga và Áo tiến hành
cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất.
[59][65] Trong khi đó, Thổ Nhĩ Kỳ suy vong, bị Nga đánh bại và lấy đất.
[59]
Sau thời kỳ khai phá châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]
Sau thời kỳ khai phá, các ý niệm về
dân chủ bắt rễ tại châu Âu. Vào thế kỷ thứ 18,
trào lưu triết học Khai sáng ở Pháp có những nhà
triết học hàng đầu như
Voltaire (François-Marie Arouet,
1694 -
1778) - bạn hữu của vua Phổ Friedrich II Đại Đế
[59] - và
Jean-Jacques Rousseau (
1712 - 1778).
[88] Ngay từ năm
1688, cuộc
Cách mạng Vinh Quang đã giành thắng lợi tại Anh, lật đổ ông vua độc đoán
James II.
[89] Thậm chí tại một số nước
phong kiến như Phổ và Nga, các vị minh quân Friedrich II Đại Đế và Ekaterina II Đại Đế đã tiến hành những
cải cách tiến bộ, dù không triệt để.
[90] Vua Friedrich II Đại Đế cũng từng tham gia trong
Hội Tam Điểm - một tổ chức bí mật có tư tưởng tiến bộ.
[59] Vào năm
1789, ngọn lửa
Cách mạng Pháp cũng rực cháy, đến độ vào năm
1793 vua
Louis XVI bị hành quyết.
[91] Kết quả đã dẫn đến những biến động to lớn tại châu Âu khi các tư tưởng cách mạng này truyền bá khắp lục địa. Việc hình thành tư tưởng dân chủ khiến cho căng thẳng trong châu Âu không ngừng gia tăng, ngoài những căng thẳng đã có sẵn do tranh giành tài nguyên tại
Tân Thế giới. Một trong những căng thẳng tiêu biểu trong thời kỳ này là khi
Napoléon Bonaparte lên ngôi
Hoàng đế đã tiến hành các cuộc chinh phục nhằm hình thành một
Đế chế thứ nhất của người Pháp, tuy nhiên Đế chế này nhanh chóng sụp đổ. Sau các cuộc chinh phục này, châu Âu dần ổn định. Nước Nga hùng mạnh trở thành một "tên sen đầm" bách chiến bách thắng của châu Âu.
[59]
Tuy trào lưu Khai sáng suy yếu nhưng các tư tưởng của trào lưu triết học này vẫn chưa bị phai sau nhiều biến cố lịch sử, thể hiện qua những cải cách đúng đắn của quan đại thần Triều đình Phổ
Heinrich Friedrich Karl vom und zum Stein (
1757 -
1831). Rồi
chủ nghĩa lãng mạn ra đời.
[90] Cuộc
Cách mạng Công nghiệp khởi nguồn từ nước Anh vào cuối
thế kỷ 18, dẫn đến sự chuyển dịch ra khỏi nông nghiệp và mang lại thịnh vượng chung đồng thời gia tăng số dân. Vào năm
1848, làn sóng
Cách mạng lan rộng trên nhiều nước châu Âu, chẳng hạn như
Ý. Đó cũng là cái năm mà
Karl Marx và
Friedrich Engels viết nên bản "Tuyên ngôn của
chủ nghĩa Cộng sản".
[92] Vào năm
1863, ngọn lửa đấu tranh vì tự do lại bùng cháy tại Ba Lan, nhưng bị chính phủ
Nga hoàng đàn áp.
[93] Vương quốc Phổ hùng mạnh, với quân sĩ tinh nhuệ đã giành chiến thắng trong một cuộc chiến tranh và gầu dựng nên
Đế chế Đức vào năm
1871 dưới sự lãnh đạo của Hoàng đế
Wilhelm I và Thủ tướng
Otto von Bismarck. Trong các năm
1904 -
1905, châu Âu phải chứng kiến một sự kiện khác thường:
Đế quốc Nhật Bản đánh thắng Đế quốc Nga trong cuộc
chiến tranh giữa hai nước.
[94] Biên giới các nước châu Âu vẫn trong tình trạng hiện nay khi cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc. Kể từ sau cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ hai cho đến khi kết thúc tình trạng
Chiến tranh Lạnh, châu Âu đã từng bị chia thành hai khối chính trị và kinh tế lớn: các nước
cộng sản ở
Đông Âu và các nước
tư bản ở
Tây Âu. Vào khoảng
1990, với sự sụp đổ của
Bức tường Berlin,
khối Đông Âu dần dần tan rã.
-
Biên giới chính trị và địa lý của châu Âu không phải lúc nào cũng là một. Bản đồ địa lý và chính trị này cho thấy toàn bộ châu Âu đến tận dãy Ural
Về mặt địa lý, châu Âu nằm trong một đại lục rộng hơn là
lục địa Âu Á. Ranh giới của lục địa châu Âu với
châu Á bắt đầu từ
dãy Ural ở
Nga phía đông, đến đông nam thì không thống nhất, có thể coi là
sông Ural hoặc
sông Emba. Từ đó ranh giới này kéo đến
biển Caspia, sau đó đến
sông Kuma và Manych hoặc dãy
Kavkaz, rồi kéo đến
Biển Đen;
eo biển Bosporus,
biển Marmara, và
eo biển Dardanelles chấm dứt ranh giới với châu Á. Biển
Địa Trung Hải ở phía nam phân cách châu Âu với
châu Phi. Ranh giới phía tây là
Đại Tây Dương, tuy thế
Iceland, nằm cách xa hẳn so với điểm gần nhất của châu Âu với
châu Phi và
châu Á, cũng nằm trong châu Âu. Hiện tại việc xác định
trung tâm địa lý châu Âu vẫn còn trong vòng tranh luận.
Trên thực tế, biên giới của châu Âu thông thường được xác định dựa trên các yếu tố chính trị, kinh tế, và văn hóa. Do vậy mà kích thước cũng như số lượng các nước của
châu Âu sẽ khác nhau tùy theo định nghĩa. Hầu hết các nước trong châu Âu là thành viên của
Hội đồng châu Âu, ngoại trừ
Belarus, và
Tòa Thánh (
Thành Vatican).
Khái niệm
lục địa châu Âu không thống nhất. Vì châu Âu không được bao bọc toàn bộ bởi biển cả nên nhiều người coi nó chỉ là bán đảo của
lục địa Âu Á. Trong quá khứ, khái niệm
lãnh thổ Kitô giáo được coi là quan trọng hơn cả đối với châu Âu.
Trên thực tế,
châu Âu ngày càng được dùng là cách gọi tắt để chỉ
Liên minh châu Âu (LMCÂ) và các 25 thành viên hiện tại của nó. Một số nước châu Âu đang xin làm thành viên, số khác dự kiến cũng sẽ tiến hành thương lượng trong tương lai (xem
Mở rộng Liên minh châu Âu).
Về mặt địa hình, châu Âu là một nhóm các
bán đảo kết nối với nhau. Hai bán đảo lớn nhất là châu Âu "lục địa" và bán đảo
Scandinavia ở phía bắc, cách nhau bởi
Biển Baltic. Ba bán đảo nhỏ hơn là (
Iberia,
Ý và bán đảo
Balkan) trải từ phía nam lục địa tới
Địa Trung Hải, biển tách châu Âu với
châu Phi. Về phía đông, châu Âu lục địa trải rộng trông như miệng phễu tới tận biên giới với châu Á là
dãy Ural.
Bề mặt địa hình trong châu Âu khác nhau rất nhiều ngay trong một phạm vi tương đối nhỏ. Các khu vực phía nam địa hình chủ yếu là đồi núi, trong khi về phía bắc thì địa thế thấp dần từ các dãy
Alps,
Pyrene và
Karpati, qua các vùng đồi, rồi đến các đồng bằng rộng, thấp phía bắc, và khá rộng phía đông. Vùng đất thấp rộng lớn này được gọi là Đồng bằng Lớn Âu Châu, và tâm của nó nằm tại
Đồng bằng Bắc Đức. Một vùng đất cao hình vòng cung nằm ở biên giới biển phía tây bắc, bắt đầu từ
quần đảo Anh phía tây và dọc theo trục cắt
fjord có nhiều núi của
Na Uy.
Mô tả này đã được giản lược hóa. Các tiểu vùng như Iberia và Ý có tính chất phức tạp riêng như chính châu Âu lục địa, nơi mà địa hình có nhiều cao nguyên, thung lũng sông và các lưu vực đã làm cho miêu tả địa hình chung phức tạp hơn.
Iceland và
quần đảo Anh là các trường hợp đặc biệt. Iceland là một vùng đất riêng ở vùng biển phía bắc được coi như nằm trong châu Âu, trong khi quần đảo Anh là vùng đất cao từng nối với lục địa cho đến khi địa hình đáy biển biến đổi đã tách chúng ra.
Do địa hình châu Âu có thể có một số tổng quát hóa nhất định nên cũng không ngạc nhiên lắm khi biết là trong lịch sử, vùng đất này là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc tách biệt trên các vùng đất tách biệt mà ít có pha trộn.
Có mặt bên cạnh những người làm nông nghiệp hàng nghìn năm nay,
động vật cũng như
thực vật của châu Âu bị các hoạt động của con người ảnh hưởng mạnh. Ngoại trừ
Scandinavia và bắc
Nga, thì chỉ còn vài vùng trong châu Âu hầu như còn nguyên tình trạng hoang dã, không kể các vườn động thực vật nhân tạo.
Thảm thực vật chủ yếu ở châu Âu là
rừng. Điều kiện ở châu Âu rất thuận lợi cho rừng phát triển. Về phía bắc,
Hải lưu Gulf Stream và
Hải lưu Bắc Đại Tây Dương sưởi ấm lục địa này. Nam Âu thì có khí hậu ấm và ôn hòa. Vùng này thường có mưa rào mùa hè. Các dãy núi cũng ảnh hưởng tới các điều kiện phát triển sinh vật. Một số dãy (
Alps,
Pyrene) có hướng đông-tây nên tạo điều kiện cho gió mang một lượng nước rất lớn từ biển vào trong đất liền. Các dãy khác thì hướng nam-bắc (các dãy
Scandinavia,
Dinarides,
Karpati,
Apennin) và vì mưa chỉ đổ chủ yếu phía bên sườn núi hướng ra biển nên rừng rất phát triển về phía này, trong khi phía bên kia thì điều kiện kém thuận lợi hơn. Một số nơi trong châu Âu lục địa ít có
thú nuôi trong một vài giai đoạn, và việc phá rừng cho sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng đến hệ sinh thái động và thực vật nguyên thủy.
Khoảng 80 đến 90 phần trăm châu Âu đã từng được bao phủ bởi rừng. Rừng trải từ Địa Trung Hải đến tận
Biển Bắc Cực. Mặc dù hơn nửa số rừng nguyên sơ của châu Âu biến mất qua hàng thế kỷ
thực dân hóa, châu Âu vẫn còn một phần tư số rừng của thế giới - rừng
vân sam (
spruce) của Scandinavia, rừng
thông bạt ngàn ở Nga,
rừng nhiệt đới ẩm (
rainforest) của Caucasus và rừng
sồi bần (
cork oak) trong vùng Địa Trung Hải. Trong thời gian gần đây, việc phá rừng đã bị hạn chế rất nhiều và việc tái trồng rừng ngày càng nhiều. Tuy thế, trong hầu hết các trường hợp người ta thích trồng cây họ thông hơn là loại các cây rụng lá sớm nguyên thủy vì thông mọc nhanh hơn. Các trang trại và đồn điền chăn nuôi thiên về một loài trên một diện tích rộng lớn đã không tạo điều kiện thuận lợi cho các loài sinh vật khác nhau trong rừng châu Âu sinh trưởng. Lượng rừng nguyên sinh ở Tây Âu chỉ còn chừng hai đến ba phần trăm tổng số rừng (nếu tính cả Nga thì sẽ là năm đến mười phần trăm). Nước có tỉ lệ rừng bao phủ thấp nhất là
Ireland (tám phần trăm), trong khi nước có nhiều rừng bao phủ nhất là
Phần Lan (72 phần trăm).
Trong châu Âu "lục địa", rừng cây
rụng lá sớm (
deciduous) chiếm ưu thế. Các loài quan trọng nhất là
sồi beech,
bulô (
birch) và
sồi. Về phía bắc, nơi rừng
taiga sinh sôi, loài cây phổ biến nhất là bulô. Trong vùng Địa Trung Hải, người ta trồng nhiều
cây olive là loại đặc biệt thích hợp với khí hậu khô cằn ở đây. Một loài phổ biến tại Nam Âu là
cây bách. Rừng
thông chiếm ưu thế ở các vùng cao hay khi lên phía bắc trong Nga và Scandinavia, và nhường lối cho
tundra khi đến gần Bắc Cực. Vùng Địa Trung Hải với khí hậu bán khô cằn thì có nhiều rừng rậm. Một dải lưỡi hẹp đông-tây của
thảo nguyên Âu Á, trải dài về phía đông tại Ukraina và về phía nam tại Nga và kết thúc ở Hungary và đi qua rừng taiga ở phía bắc.
Việc đóng băng trong
thời kỳ Băng hà gần đây nhất và sự hiện diện của con người đã ảnh hưởng tới sự phân bố của hệ động vật châu Âu. Về động vật thì trong nhiều khu vực của châu Âu, đa phần các loài động vật lớn và các loài
thú ăn thịt hàng đầu đã bị săn tới tuyệt chủng. Loài
voi mamut có lông và
bò rừng châu Âu (
aurochs) đã tuyệt chủng trước cuối
thời kỳ Đá Mới. Ngày nay
chó sói (
ăn thịt) và
gấu (
ăn tạp) đang bị đe dọa tuyệt chủng. Có thời những loài này có mặt trên khắp châu Âu. Tuy nhiên, việc phá rừng đã khiến các loài này mất dần. Vào thời
Trung Cổ thì môi trường sống của các loài
gấu chỉ còn trong các vùng đồi núi khó đến với rừng rậm bao phủ. Ngày nay, gấu nâu sống chủ yếu trong bán đảo Balkans, ở Bắc Âu và Nga; một số nhỏ cũng còn ở một số nước châu Âu (Áo, Pyrene, v.v.), tuy thế tại những nơi này số lượng gấu nâu bị phân tán và cho ra rìa vì môi trường sống của chúng bị phá hoại. Ở cực bắc châu Âu, có thể thấy
gấu bắc cực.
Chó sói là loài phổ biến thứ hai ở châu Âu sau gấu nâu cũng được tìm thấy chủ yếu tại
Đông Âu và vùng Balkans.
Các
loài ăn cỏ quan trọng ở châu Âu là
ốc sên, các
loài lưỡng cư,
cá, các loại
chim, các loại
động vật có vú, như các
loài gặm nhấm,
hươu,
hoẵng (
roe deer),
lợn rừng, cũng như
con marmot,
dê rừng vùng Alps (
steinbock),
sơn dương (
chamois) là những loài sống trong núi.
Từ thời xa xưa, con người ở đây có sự phát triển vượt bậc, biết chế tạo cũng như phát minh nhiều thứ để phục vụ cho đời sống. Khi sang thế kỷ 20, số dân châu Âu là hơn 600 triệu người, nhưng hiện nay số dân đang vào giai đoạn giảm dần vì các nhân tố xã hội khác nhau.
Các
nhà nước sau đây có các quốc gia độc lập trong châu Âu:
2 Azerbaijan và Gruzia nằm một phần trong châu Âu theo định nghĩa thông thường coi đỉnh của
Caucasus là biên giới với châu Á.
3 Lãnh thổ châu Âu của Kazakhstan bao gồm một phần tây dãy Ural và sông Emba.
4 Tên nước này đang là tranh luận quốc tế. Xem chi tiết tại
Cộng hòa Macedonia.
5 Phần lãnh thổ của Nga nằm phía tây dãy Ural được coi là trong châu Âu.
7 Thổ Nhĩ Kỳ châu Âu bao gồm lãnh thổ về phía tây và bắc của eo biển Bosporus và Dardanelles.
2, 3, 5, 7 Xem chi tiết
các nước ở cả châu Âu và châu Á.
Các lãnh thổ châu Âu liệt kê dưới đây được công nhận là có văn hóa và địa lý xác định. Đa phần đều có một mức đọ tự trị nhất định. Phần trong ngoặc giải thích tình trạng phụ thuộc của mỗi lãnh thổ.
Lưu ý: Đây không phải là danh sách đầy đủ các lãnh thổ phụ thuộc các nước trong châu Âu. Các lãnh thổ phụ thuộc trên các lục địa khác không được liệt kê ở đây.
Đây là các lãnh thổ đòi tách khỏi các quốc gia độc lập. Các vùng lãnh thổ này đã tuyên bố và giành được độc lập
chính thức trên thực tế (
de facto), nhưng không được các quốc gia mà nó thuộc trước đó hoặc một quốc gia độc lập khác công nhận
chính thức theo luật (
de jure).
Lãnh thổ dưới sự quản lý của Liên Hiệp Quốc[sửa | sửa mã nguồn]
Các vùng ngôn ngữ và văn hóa trong châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]
Sự phân chia thành các vùng văn hóa và ngôn ngữ trong châu Âu ít mang tính chủ quan hơn là phân chia về mặt địa lý vì nó thể hiện mối liên hệ về văn hóa của con người ở đây. Có thể chia ra làm ba nhóm chính là:
Châu Âu German là nơi sử dụng
các ngôn ngữ German. Khu vực này gần như tương ứng với tây-bắc châu Âu và một số phần của Trung Âu. Tôn giáo chính trong khu vực này là
đạo Tin Lành, mặc dù cũng có một số vùng miền trong đó đa phần dân chúng theo
Công giáo (đặc biệt là Áo). Khu vực này bao gồm các nước:
Vương quốc Anh, Iceland, Đức, Áo, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Luxemburg, Liechtenstein, quần đảo Faroe, vùng Thụy Sĩ nói tiếng Đức,
vùng Vlaanderen thuộc Bỉ,
vùng nói tiếng Thụy Điển thuộc Phần Lan,
khu tự trị của Phần Lan, và vùng
Nam Tyrol thuộc Ý.
Châu Âu Latinh là nơi nói
các ngôn ngữ Rôman. Khu vực này gần như tương ứng với tây-nam châu Âu, ngoại trừ România và Moldova nằm ở Đông Âu. Đa phần khu vực này theo Công giáo, ngoài trừ România và Moldova. Khu vực này bao gồm các nước: Ý, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, România, Moldova, vùng Bỉ nói
tiếng Pháp và vùng Thụy Sĩ nói tiếng Pháp, cũng như vùng Thụy Sĩ nói
tiếng Ý và
tiếng Romansh.
Châu Âu Slavơ là nơi nói
các ngôn ngữ Slavơ. Khu vực này gần như tương ứng với Trung và Đông Âu. Tôn giáo chính là
Chính thống giáo và Công giáo, cũng như cả
Hồi giáo. Khu vực này gồm các nước: Ukraina, Ba Lan, Nga, Belarus, Cộng hòa Séc, Slovakia, Slovenia, Bosna và Hercegovina, Croatia, Serbia, Montenegro, Cộng hòa Macedonia, Bulgaria.
Ngoài ba nhóm chính kể trên còn có:
- Các khu vực gốc Celt: Scotland, Wales, Bắc Ireland, Cornwall (nằm trong Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland); đảo Man (phụ thuộc Vương miện Anh); Ireland; Bretagne (nằm trong Pháp). Đây là các nước và vùng đã hoặc đang nói các thứ tiếng Celt, đồng thời có chung một văn hóa ở góc độ nào đó (xem Phong trào toàn Celt). Galicia (Tây Ban Nha) (nằm trong Tây Ban Nha) cũng được một số người coi là một vùng Celt, nơi mà ngôn ngữ gốc Celt của họ đã biến mất cách đây vài trăm năm.
- Hy Lạp nói tiếng Hy Lạp (cũng có thể tính cả cộng đồng người Hy Lạp tại Síp), Albania nói tiếng Albania và Armenia nói tiếng Armenia. Ba ngôn ngữ này tạo thành ba nhánh riêng trong ngữ hệ Ấn-Âu. Tuy nhiên, Hy Lạp có thể xếp vào các nước Latinh do liên hệ địa lý và văn hóa với khu vực Địa Trung Hải, hoặc xếp vào nhóm Chính thống giáo Slavơ vì đa phần người dân theo Chính thống giáo.
- Ibero-Caucasus, một nhóm bao gồm các sắc dân thiểu số trong khắp vùng Kavkaz (cả bắc và nam). Nhóm ngôn ngữ Ibero-Caucasus không thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Nhóm này bao gồm các sắc dân Gruzia, Abkhaz, Chechen, Balkar và một số các sắc dân nhỏ khác trong vùng Kavkaz.
- Hungary nói tiếng Magyar, một ngôn ngữ có liên hệ với tiếng Phần Lan và tiếng Estonia. Do vị trí địa lý của nó, Hungary được xếp vào các nước Trung và Đông Âu.
- Phần Lan và Estonia do vị trí địa lý nên được xếp vào các nước Bắc Âu mặc dù có ngôn ngữ cùng thuộc ngữ hệ Ural với tiếng Hungary (tuy không chặt).
- Thổ Nhĩ Kỳ, nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ cũng không thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, và gần như là một nước Hồi giáo, không giống như các nước trong châu Âu theo các nhánh Cơ Đốc giáo.
Đặc điểm chính của châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]
- Con người
- Kinh tế
- Chính trị
- Khác
- ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang XV-XVI.
- ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, trang 1
- ^ The map shows one of the most commonly accepted delineations of the geographical boundaries of Europe, as used by National Geographic và Encyclopaedia Britannica. Whether countries are considered in Europe or Asia can vary in sources, for example in the classification of the CIA World Factbook or that of the BBC.
- ^ a ă â b Norman Davies, Europe: a history, các trang 132-151.
- ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, các trang 1-2.
- ^ a ă Norman Davies, Europe: a history, các trang 109-122.
- ^ a ă â b c Norman Davies, Europe: a history, các trang 125-132.
- ^ a ă Norman Davies, Europe: a history, trang 98
- ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, trang 15
- ^ Tom Holland, Persian Fire: The First World Empire and the Battle for the West, trang 371
- ^ a ă Norman Davies, Europe: a history, các trang 102-104.
- ^ a ă â Norman Davies, Europe: a history, các trang 142-153.
- ^ a ă Norman Davies, Europe: a history, các trang 158-182.
- ^ Hagen Schulze, Deborah Lucas Schneider, Germany: A New History, Harvard University Press, 2001, trang 1. ISBN 0-674-00545-7.
- ^ a ă â Norman Davies, Europe: a history, các trang 189-203.
- ^ Norman Davies, The Isles: a history, các trang 109-110.
- ^ Stephen Williams, Gerard Friell, John Gerard Paul Friell, Theodosius: the empire at bay, trang 79
- ^ a ă Norman Davies, Europe: a history, các trang 232-239.
- ^ Noel Emmanuel Lenski, The Cambridge companion to the Age of Constantine, Tập 13, trang 379
- ^ Noel Emmanuel Lenski, The Cambridge companion to the Age of Constantine, Tập 13, các trang 111-112.
- ^ Stephen Williams, Gerard Friell, John Gerard Paul Friell, Theodosius: the empire at bay, trang 31
- ^ a ă Norman Davies, Europe: a history, các trang 253-259.
- ^ Stephen Williams, Gerard Friell, John Gerard Paul Friell, Theodosius: the empire at bay, trang 72
- ^ Stephen Williams, Gerard Friell, John Gerard Paul Friell, The Rome that did not fall: the survival of the East in the fifth century, trang 87
- ^ Stephen Williams, Gerard Friell, John Gerard Paul Friell, The Rome that did not fall: the survival of the East in the fifth century, trang 190
- ^ Robert Browning, The Byzantine Empire, các trang 8-11.
- ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 298-306.
- ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 316-318.
- ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 246
- ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 320-326.
- ^ a ă â Norman Davies, Europe: a history, các trang 333-359.
- ^ Hagen Schulze, Deborah Lucas Schneider, Germany: A New History, trang 13
- ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 400
- ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 40
- ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 408
- ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 419-423.
- ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 386-389.
- ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 448
- ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, trang XXVII
- ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, trang 300
- ^ a ă Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, các trang 105-106.
- ^ Dennis E. Showalter, William J. Astore, The early modern world, các trang XXI-XXII.
- ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, các trang 87-97.
- ^ Hagen Schulze, Deborah Lucas Schneider, Germany: A New History, trang 52
- ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, trang XXV
- ^ a ă â Norman Davies, Europe: a history, Oxford University Press, 1996. ISBN 0-19-820171-0. các trang 560-586.
- ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, các trang 63-67.
- ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 471-476.
- ^ a ă â b Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, các trang 221-228.
- ^ David R. Stone, A military history of Russia: from Ivan the Terrible to the war in Chechnya, các trang 11-13.
- ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, trang 16
- ^ Norman Davies, God's playground: a history of Poland in two volumes, các trang 347-348.
- ^ a ă Norman Davies, Europe: a history, các trang 554-558.
- ^ David R. Stone, A military history of Russia: from Ivan the Terrible to the war in Chechnya, trang 32
- ^ Christopher Duffy, Siege Warfare: The fortress in the early modern world, 1494-1660, trang 174
- ^ Dennis E. Showalter, William J. Astore, The early modern world, các trang 12-13.
- ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 566-567.
- ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, trang 310
- ^ a ă â b c d đ Norman Davies, Europe: a history, các trang 625-649.
- ^ Robert Oresko, G. C. Gibbs, Hamish M. Scott, Royal and republican sovereignty in early modern Europe: essays in memory of Ragnhild Hatton, trang 190
- ^ a ă Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, các trang 44-58.
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, các trang 86-93.
- ^ a ă Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, các trang XVI-XXVI.
- ^ Hamish M. Scott, The emergence of the Eastern powers, 1756-1775, trang 59
- ^ a ă â b Norman Davies, Europe: a history, các trang 652-663.
- ^ a ă Hamish M. Scott, The birth of a great power system, 1740-1815, các trang 20-28.
- ^ Theodor Schieder, Sabina Berkeley, Hamish M. Scott, Frederick the Great, trang 145
- ^ Theodor Schieder, Sabina Berkeley, Hamish M. Scott, Frederick the Great, trang 91
- ^ Dennis E. Showalter, The wars of Frederick the Great, trang 19
- ^ a ă Rudolf Vierhaus, Germany in the Age of Absolutism, các trang 136-140.
- ^ Theodore Ropp, War in the Modern World, trang 46
- ^ Dennis E. Showalter, The wars of Frederick the Great, trang 38
- ^ Reed Browning, The War of the Austrian Succession, trang 238
- ^ Reed Browning, The War of the Austrian Succession, trang 321
- ^ David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 201
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 92
- ^ David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, các trang 366-377.
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, các trang 197-206.
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, các trang 206-211.
- ^ Hamish M. Scott, The birth of a great power system, 1740-1815, trang 111
- ^ a ă Hamish M. Scott, The birth of a great power system, 1740-1815, các trang 33-39.
- ^ Hamish M. Scott, The birth of a great power system, 1740-1815, trang 1
- ^ Theodor Schieder, Sabina Berkeley, Hamish M. Scott, Frederick the Great, trang 137
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang IX
- ^ Norman Davies, God's playground: a history of Poland in two volumes, trang 389
- ^ Hamish M. Scott, The emergence of the Eastern powers, 1756-1775, trang 38
- ^ Euan Cameron, Early modern Europe: an Oxford history, trang 319
- ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 605
- ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 629
- ^ a ă Norman Davies, Europe: a history, các trang 610-611.
- ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 695
- ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 823-837.
- ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 811
- ^ Norman Davies, Europe: a history, các trang 851-868.