Có những dòng sông trong mỗi con người làm người ta luôn nhớ về.
Có những kỷ niệm có thể phai nhòa theo năm tháng, nhưng những mẩu chuyện về tuổi nhỏ thì khó ai mà quên được, nếu ngày đó, ta còn có những người bạn để chia sẻ, khi mất bạn rồi, thì kỷ niệm giờ chia sẻ với ai đây?
Mời quý anh chị theo dòng kỷ niệm về nơi có một dòng sông của anh Phạm Nga.
Cám ơn anh đã gửi bài và hình cho bài viết.
Caroline Thanh Hương
Tản
văn
Những Dòng Sông Trôi Chảy Mãi Từ Tuổi Thơ
1.
Mấy ngày mưa liên tục này,
bị chứng đau-lưng-bởi-thời-khí-ẩm-ướt hành hạ, cũng làm như thể mình là một đạo
sĩ trong truyện Tàu thất chí mà ẩn mình vào mật thất để tịnh tu, tôi nằm nhà đọc
lại cuốn tản văn Về Ngang Quán Không của Bùi Diệp quá cố. Nhà thơ/người viết tản
văn tài hoa, nhân hậu này, dù với riêng tôi thì chỉ có được vài năm kết giao thật
ngắn ngủi trên FB nhưng đã thầm lặng thành bạn vong niên tri kỷ mà tôi vô cùng
quý trọng trong giới thi ca, viết lách.
Trong tập tản văn, Bùi Diệp
đã nhiều lần nhắc đến dòng sông Dinh đầy ấn tượng ở đất quê Phan Rang của anh.
Nhà thơ trìu mến và trân trọng nhận đây là dòng sông tuổi thơ của anh, nơi mà “Vẻ thôn dã và hoang dại của bờ sông, đồng ruộng,
trảng cát, của nắng gió trời cho luôn gợi về môt không gian quê mùa và thanh
bình”, hay “Dòng sông quê và buổi chiều
đông sẽ ở lại mãi nơi miền ký ức dù đôi chân ta dẫu có đi suốt một đời người
cũng không tới tận cùng sông.".
2.
Đúng ra, khi ra đời ở đất
biển Nha Trang là cũng gốc quê miềnTrung với Bùi Diệp, nhưng do hoàn cảnh và thời
cuộc, bố mẹ tôi bị viên tỉnh trưởng quốc tịch Pháp thời đó ra lịnh tống xuất
vĩnh viễn khỏi tỉnh Khánh Hòa, nên mới 2-3 tuổi tôi đã phải theo hai đấng sinh
thành tội đồ của mình vào đất Sài Gòn nương thân - cho đến mãi tận ngày nay. Do vậy, tuổi nhỏ
tôi không may mắn như tuổi nhỏ của Bùi Diệp là được có một dòng sông ngay nơi mảnh
đất mình ra đời – dòng sông thân thương đóng vai chứng nhân rồi để sau này chiếm
luôn một mảng vô cùng lớn trong kho ký ức tuổi nhỏ gồm đầy những nỗi vui buồn,
những trò vụng dại, những cảm xúc và ước mơ đầu đời hay chuẩn bị vào đời…
Đến thời 10 – 11 tuổi tôi
mới được trở lại đất Nha Trang. Đó là vào các dịp nghỉ hè hằng năm, tôi thường
được về cả 2- 3 tháng ở nhà bà dỉ ruột nằm ở thôn Phường Cũi, phía đông Nha
Trang xưa, sau này là phường nội thành Phương Sài.
Lãng đãng trong trí nhớ
tôi là con sông Phường Cũi - một nhánh nhỏ của sông Cái chảy qua cái
thôn đông dân lao động, toàn nhà cửa lụp xụp, ngày xưa chỉ được coi là gần như
một vạt ngoại ô nghèo nàn của thành phố Nha Trang phồn thịnh. Do chưa có những
luật lệ nghiêm nhặt như ngày nay về vệ sinh – môi trường trong khu dân cư nên
thời đó trong phường có một vài nhà làm nước mắm, bà con quen gọi là nhà thùng,
cứ ung dung tỏa cái mùi khăm khắm của xác cá phân hũy nửa vời trong muối hột
vào khắp những lối đi đầy cát hay lát đá xanh trong xóm làng.
Thôn làng bị ô nhiễm môi
trường là thế nhưng tôi, cậu bé ngày ấy vẫn có nhiều cảm tình đối với con sông
Phường Cũi, dù ở một bên bờ sông từ xa xưa đã có một cái bến cá đầy rác rến và nhầy
nhụa bùn sình, quanh năm lai láng nước thải tanh hôi… Sát bên cái bến cá lại có
một cây cầu gỗ cũ kỹ, xấu xí bởi được chắp vá bởi đủ loại gỗ mới, cũ hay phế thải.
Ngày ngày, bọn tôi cứ quần xà lỏn, đa số ở trần và đi chân không ra cầu chơi,
nghịch đủ trò.
Tôi đã thường cùng những đứa
trẻ khác mang theo cần câu, mà thú vị nhất là câu cá bóng cát. Đặc biệt khi muốn
bắt loại cá này, bọn tôi phải chỏng khu hay nằm mẹp trên mặt sàn cầu, cắm cúi
nhìn xuống gầm cầu, đúng hơn là những cây trụ cầu bằng gỗ chìm dưới nước, để cố
tìm cho ra những con cá bóng cát bám ở thân trụ. Loài cá có thân mình trắng
trong này cứ như dán mình vào cây trụ theo chiều đứng, đầu hướng lên mặt nước,
nằm im lìm như ngủ mê, nhưng khi bọn trẻ rê cái lưỡi câu với mồi trùng hay tôm
chết đến gần là bập một cái, chúng há họng táp gọn, cứ giật lên là dính, rất hiếm
khi sẩy. Bữa nào câu cá được kha khá,
bọn tôi làm thêm một trò nữa là lội ra một cái doi cát nhỏ, lau sậy mọc um tùm ở
giữa một khúc sông phía dưới Phường Cũi một chút để tìm hái đọt ráng, một loại rau mềm mại, hơi nhớt
chút xíu nhưng ngọt ngon cực kỳ. Cá bóng cát đem về cho mấy chị kho tiêu xong
xuôi rồi đem đọt ráng luộc ra chấm
thì nồi cơm lớn cỡ nào cũng hết sạch bon!
Cũng tại cây cầu gỗ, sau
khi tắm sông đả đời, bọn tôi hay đứng hay ngồi thòng chân xuống nước, căng mắt
nhìn xuống dòng nước chảy để cố gắng phát hiện một loài cua, còng nhỏ bằng hai
đầu ngón tay - tên địa phương là con rạm
- trôi dật dờ gần mặt nước, nhiều nhất là vào lúc nước lớn. Rồi những đứa bơi,
lặn giỏi nhảy ùm xuống, lặn một hơi là tóm được mấy chú rạm ham rong chơi theo
dòng chảy này. Rạm bắt được nhiều thì về nhà đưa các chị ram với chút mỡ để
thêm món mặn ăn cơm, còn được ít quá thì quăng trả lại dòng sông. Bọn nhóc chúng tôi đã chơi trò bắt rạm với đủ
thứ cảm xúc háo hức, thích thú, thất vọng, hờn giận … Chỉ vậy thôi nhưng sau
này, khi hơi lớn là ngồi lớp đệ tam C, chơi thi văn đoàn, tôi đã nhớ lại những
cảm xúc hồi đi bắt rạm ngày ấy, cộng thêm nỗi thất vọng bãng lãng trong mối
tình đơn phương buông thả về phía một cô bạn học, tẩn mẩn viết thành một bài thật
ngắn, kiểu nửa tùy bút nửa nhật ký mà tôi nghĩ mãi mới ra cái tựa “Như Rạm Trôi Sông”.
3.
Song song với con sông Phường
Cũi ở miền quê Nha Trang chỉ chiếm cứ những mùa nghỉ hè các năm đầu trung học của
tôi xưa kia, sông cầu Bông ở Sài Gòn, quê hương thứ nhì của tôi, mới là dòng
sông ghi dấu cả một thời niên thiếu của tôi.
Những năm đầu thập niên
60, cậu bé dân nhập cư đất Sài Gòn là tôi chỉ nghe nói cầu Bông bắt qua sông –
đúng hơn là rạch Thị Nghè ở vùng hạ lưu đổ ra sông Sài Gòn, chứ chưa nghe nói
con rạch quanh co này thuộc hệ thống “kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè” như sau năm
1975. Thời đó, do nhà ở đường Trần Quang Khải quận 1, coi như ở giữa khu Đakao
-Tân Định nên tôi cùng bọn trẻ hàng xóm mò xuống chơi ở sông cầu Bông (thuộc
Đakao) là khá gần. Bọn tôi thường vô cái xóm nhỏ bên sông, có ngõ hẹp dẫn xuống
gẩm cầu để lội bãi sình tìm bắt những con cua càng đỏ hay rượt những chú cá
thòi lòi. Nghịch phá vậy thôi chứ cả bọn không hề có ý săn bắt hai loài này để
đem về ăn.
Do tình hình tốt đẹp thời
1960-70 của sông cầu Bông là nước sông còn sạch, còn có màu trong xanh rõ rệt,
chứ chưa hề đen thẳm và hôi hám bởi ô nhiễm nặng như vài năm sau 1975 (chỉ đỡ
đen, đỡ hôi hơn từ năm 2012 khi
khởi động trạm bơm thu gom nước thải ở lưu vực kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè, sau đó
đổ ra sông Sài Gòn), nên dân Đa Kao –
Tân Định, con nít người lớn gì thời đó nếu thích cũng đều có thể tắm sông thoải
mái, tắm giờ giấc nào cũng được mà không hề sợ ngứa da hay sinh ghẻ. Có điều là
do sông cầu Bông, Sài Gòn sâu hơn sông Phường Cũi, Nha Trang, mấy đứa biết bơi
vừa đủ như tôi ít dám ra giữa dòng, lại càng không dám a dua mấy đứa bơi lặn giỏi,
tình cờ thấy ghe máy chở mía chạy ngang cầu là nhảy ùm xuống nước bơi ra thật lẹ,
lặn một đỗi đến sát be ghe là trồi lên, êm ái rút vài cây mía rổi bơi sãi vô bờ.
Sau biến cố tháng 4-75, giống
như bao người dân Sài Gòn khác, tôi - gã thiếu úy học tập cải tạo về - không thể
tránh khỏi đủ loại khó khăn, thăng trầm trong cuộc sống. Một dạo rất bất đắc
chí, tôi hay nhậu ở nhà một người bạn cũng SQ học cải tạo về, kiểu nhà nửa nhà
sản nửa nhà gỗ dựng ở sát mé nước sông cầu Bông. Trong đám bạn nhậu thường có một
anh đã hơn 70 tuổi, tên Robert Hạnh nhưng mọi người cứ gọi tắt “anh Be”, cựu SQ
cảnh sát áo trắng, nguyên là một công tử con nhà giàu cố cựu lâu đời ở vùng Đa
Kao. Anh Be kể rất rành rẽ, thú vị về lịch sử hình thành và phát triển của vùng
Đất Hộ, một tên khác của Đa Kao. Riêng về rạch Thị Nghè chảy bên dưới cầu Bông,
anh xác nhận là ngày xưa nước con rạch rất sạch, trong veo và có nhiều cá – tất
cả là nhờ nước thủy triều ra vào từ sông Sài Gòn rất thông thoáng và dân còn
thưa, có xả rác và nước thải xuống rạch thì cũng còn ít, không đáng kể.
Anh Be kể là hồi còn thanh
niên, anh đã cùng vài thằng bạn rất chịu
chơi, cùng “diện” quần tắm vải rằn ri, ra đứng trên cầu rồi bắt chước Johnny
Weissmuller, tài tử Mỹ điển trai đã thủ vai chính trong các phim về Tarzan ban
đầu (thời 1932), hú một tiếng dài rồi lao mình xuống sông, bơi xuôi về cầu Thị
Nghè, hướng ra sông Saigon… Tôi đã mê mẩn nghe anh Be kể truyện. Một đàn anh, một
người Sài Gòn cố cựu đã cho thấy cùng với lối
chơi hào sảng trong giới thanh niên đất Sài Gòn xưa, sông cầu Bông hiền
hòa, rồi kênh nước đen đầy tai tiếng Nhiêu Lộc – Thị Nghè xem vậy mà cũng từng
dễ yêu và hoành tráng biết bao bởi con rạch nhỏ lại gắn mình vào chuyển động thủy
triều mênh mang cùng sông lớn - một nét vẽ màu xanh rất có duyên cho bản địa đồ
Sài Gòn.
4.
Người xưa từng thở dài khi
nhận ra thời gian luôn qua nhanh, chẳng khác “bóng ngựa non chạy lướt qua cửa sổ”.
Thấm thoát đã gần 70 năm trôi qua kể từ lúc tôi được ba mẹ bồng bế, rời bỏ đất
quê Nha Trang lánh vào đất Sài Gòn làm dân nhập cư. Vừa qua, vào một lúc an
thân tĩnh tại ở đất Sài Gòn đầy bao dung này mà hoài niệm quá khứ, tôi đã bắt gặp
câu “Dòng sông thời gian trôi chập chờn
trong tâm thức kẻ xa quê là không có tuổi” thật ý nhị của Bùi Diệp. Dòng tản
văn thật ngắn này cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu thấu vào chiều kích thời
gian/thời tính “không có tuổi” của những
con sông ngọt ngào thương yêu, chất ngất kỷ niệm bởi chúng đã có mặt trong thời
thơ ấu mỗi đời người và lặng lẽ trôi chảy mãi trong tâm hồn ta…
PHẠM NGA
(Mùa mưa 2018)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire