Cà Phê Xứ Người.
tuỳ bút Caroline Thanh Hương
Tại sao chúng ta lại thích nghe hoài, đoc̣ hoài những câu chuyện cũ mà hầu như ai đã sống ở nơi này đều đã nghe đã biết và còn thích nghe mãi?
Thưa, đó là một phần trong ký ức của chúng ta đã ghi lại những gì đẹp , duyên dáng nhất, nhất là nơi đó gọi là Sài Gòn.
Nơi xứ người, chúng ta cũng có những quán cà phê khác nhau, cũng có những thức uống cà phê đa dạng, nhưng khung cảnh mới, thức uống cũng chiều theo ý khách trong nước và nước ngoài.
Ngày tôi đến Toronto chơi, thăm lại người bạn xưa và khi đi dạo phố với bạn tôi, hai chúng tôi, cũng bên ly cà phê băng giá của tiệm Tim Hortons. Uống ly cà phê sữa buốt giá này, nghe kể lại là thức uống này chỉ mới được chế biến ra để thích ứng với người á châu đến đất nước này.
Cà phê Băng Giá khác với Cà Phê Đá, vì khi ta nút vào một ngụm, cái lạnh nó xuyện thấu vào óc ta làm người ta phải ngừng lại một giây trước khi có thể nút ngụm thứ hai.
Sau này về lại bên tây, tôi có đi uống cà phê ở Starbucks, nhưng không khí đã khác với khi uống với bạn mình.
Như thế đó, thức ăn hay thức uống nó chỉ ngon, mặn ngọt theo cảm giác mình được hạnh phúc và khó mà quên được khi chúng ta có những kỷ niệm đẹp.
Cám ơn người bạn thân quý NP của tôi.
Cám ơn anh Phạm Nga đã gợi lại chút kỷ niệm đã qua và mời quý anh chị cùng đọc bài viết của anh.
Caroline Thanh Hương
16 tháng 12 năm 2018
Vài Trang
Biên Sử Về Cà Phê Sài Gòn
* Ký PHAMNGA
1.
CÀ PHÊ “VỢT” HẠNG BÌNH DÂN
Năm tháng trôi qua, cứ ăn chắc mặc bền, cà phê bình dân thầm lặng phục vụ cho giới người nghèo, dân lao động
nơi nơi, tại những quán cóc trong hóc hẽm hay các sạp, tủ bán cà phê /nước giải
khát trên vỉa hè, trong bến xe, trước cửa các trường học, nhà thương, rạp hát,
chỗ làm giấy tờ…, có điều là cách pha cà phê dần hồi đổi khác.
Trong cõi nhân sinh đầy triền phược,
bất công này lại có một điều bình đẳng thật hay ho là mọi người chúng ta, bất kể
giàu hay nghèo, đều có thể uống cà phê. Từ những người nghèo, thật nghèo hèn
như anh xe ôm, cậu sinh viên, dân lượm ve chai cho đến những người giàu, thật
giàu có như ngài tổng giám đốc ngân hàng, ông chủ hãng xe hơi, vị trưởng phòng
kinh doanh công ty nước ngoài…, đến cơn ghiền hay khi chợt nghĩ mình nên đi uống
cà phê, hoặc vào bất cứ lúc nào đó rảnh rang, đều có thể đi một mình hay cùng bạn
bè, đồng nghiệp ghé một quán cóc thật xập xệ bên đường hay một quán cà phê giá
vửa phải hoặc một quán máy lạnh thật sang trọng, để mỗi người có thể nhâm nhi,
thưởng thức món cà phê theo ý mình.
Ngày xưa, cà phê giao diện bình dân, nhà
nghèo - theo nghĩa giá rẻ, giá hạ, hợp với túi tiền của người nghèo, giới bình
dân – từ gần 100 năm về trước ở Sài Gòn đã gắn liền với cà phê vợt, tức cách
pha cà phê theo truyền thống Nam bộ. Pha vợt là dùng chiếc vợt có túm vải lược
(giống chiếc vớ nên có tên gọi nữa là cà phê vớ hay cà phê bít-tất) đựng cà phê
bột rồi bỏ vào cái siêu đất sét – Vâng, đúng là cái siêu xắc thuốc Bắc còn có
công dụng nữa là pha cà phê.
Cũng từ xa xưa, cà phê vợt đi liền với
những nơi chốn bình dân, tập trung là các quán cóc trong ngỏ hẽm. Ở Sài Gòn,
hơn 80 về trước quán Cheo Leo tại vùng Bàn Cờ đã nổi tiếng tiêu biểu cho cà phê
vợt và ngày nay vẫn tồn tại đến đời chủ
thứ 3. Cũng truyền đến 3 đời là một quán café vợt khác trong một con hẽm đường
Phan Đình Phùng của ông Đặng Ngọc Côn (nay đã gần 90 tuổi).
Bên cạnh đó, cà phê pha phin (từ tiếng
Pháp “filtre”, có nghĩa là vật dụng dùng để lọc) cũng đã lai rai xuất hiện ở
Sài Gòn khoảng đầu thập niên 60 thế kỷ trước, như có ngay ở quán Năm Dưỡng, gần
quán Cheo Leo, cùng ở vùng Bàn Cờ.
Hình thức pha chế cà phê kiểu Tây, với
cái phin nhôm - hay đẹp hơn là cái phin inox sáng loáng - tất nhiên mang vẻ tân
thời hơn cái siêu đất thô kệch vốn tiêu biểu cho cà phê bình dân, giá rẻ. Nhưng
có một điều đáng chú ý là ngay từ hơn 80 năm trước, ông Vĩnh Ngô, người mở quán
Cheo Leo, đã chủ trương chọn cà phê ngon, hiệu Meilleur Gout, Jean Martin danh
giá chứ không phải thứ cà phê dở, giá rẻ mạt nào khác đem pha vợt, có nghĩa là
giá thành ly cà phê vợt ở Cheo Leo khá cao chứ không thấp. Nhưng do từ một mẻ
cà phê bột đã chín bởi nước sôi là được chắt từ cái siêu pha qua cái siêu trữ để
từ từ mà cho ra nhiều ly, giá cà phê vợt đã có thể hạ, tức thấp hơn giá cà phê
phin là thứ phải pha riêng từng ly. Vậy, ngay buổi ban đầu, cà phê vợt của quán
Cheo Leo - điển hình của cà phê vợt Việt Nam – dù chủ nhân chơi sang, chọn nguồn
cà phê mắc mỏ để pha bán cho khách nhưng vẫn thuộc về giao diện cà phê bình
dân.
Trên Facebook, nhà thơ Linh Phương
cho biết, theo ông nhớ thì ở Sài Gòn thời 1960-1970, cà phê vợt giá 1 đồng VNCH
một ly. Còn ông Đặng Sơn, nhà sưu tầm tranh, chủ studio Tự Do (ở quận 1, đã
ngưng hoạt động) cho hay vào năm 1955, một ly xây chừng (cà phê đen ly nhỏ) chỉ 5 hào và thời này thì cứ xé tờ 1
đồng ra làm hai thành 2 miếng “5 hào” mà trả thoải mái.
Rồi chiến cuộc ngày càng khốc liệt đã
khiến đồng tiền VNCH bị phá giá liên tục và nặng nề. “Điểm tâm một buổi sáng nào đó trong khoảng các năm 1974 - 1975, một tô
mì nước $120, một dĩa cơm $80, ly càfe sữa $50, không tính 2 điếu Capstan kèm
theo…”, một nhà giáo lớn tuổi đang sống ở Mỹ, đã nhớ lại.
Năm tháng trôi qua, cứ ăn chắc mặc bền, cà phê bình dân luôn thầm
lặng phục vụ cho giới người nghèo, dân lao động nơi nơi, tại những quán cóc
trong hóc hẽm hay các sạp, tủ bán cà phê /nước giải khát trên vỉa hè, trong bến
xe, trước cửa trường học, nhà thương, rạp hát, chỗ làm giấy tờ…, có điều là
cách pha cà phê đã dần hồi đổi khác.
Ngay từ cuối thập niên 60 thế kỷ trước,
nhiều quán, sạp cà phê ở Sài Gòn đã bỏ kiểu pha vợt để chỉ bán cà phê phin, hay
vẫn giữ cách pha cà phê vợt nhưng thay cái siêu đất sét bằng cái bình bằng
nhôm, hay bỏ vợt, dùng cái phin nhôm loại lớn, có thể một lượt ra cà phê cho
nhiều khách. Tuy nhiên, nhiều người sành uống cà phê cho rằng cà phê vợt cứ nên
pha bằng siêu đất và càng hay khi đun nước sôi bằng cũi (kiểu quán Cheo Leo một
thời), mùi vị cà phê mới ngon, theo nghĩa người uống sẽ cảm thấy có hương vị gì
đó thô mộc, dân dã – quả là thật hợp với giao diện cà phê nhà nghèo.
Có một điều không hay ho lắm là do cà
phê bình dân thì giá rẻ, khách uống khó đòi hỏi chất lượng phải thật ngon; đã vậy,
ở một số quán quá nghèo hay chủ quán “trùm xò”, phần xác
cà phê đã pha có thể bị chế nước sôi 1 – 2 lần nữa để chủ quán bán được thêm
vài ly. Tất nhiên, đây là nước dảo cà
phê chứ không phải cà phê nên rất kém hương vị. Hơn thế, vào cái thời đầy khó
khăn sau biến cố 30 tháng 4 và cả ngày nay cũng còn, cà phê ngoài đường phố hễ
giá rẻ thỉ nhất định bị pha bắp, cau… Thôi thì, dân ghiền cà phê mà nghèo, ít
tiền thì nhiều lúc phải chịu thiệt thòi, chỉ được tiêu thụ hàng kém chất lượng,
hàng dỏm…
Xưa nay, có lẽ không có thành phố nào
ở Việt Nam có nhiều quán cà phê đủ loại, đủ hạng, đủ phong cách bằng Sài Gòn,
trong đó nhiều nhất vẫn là cà phê bình dân. Tiêu biểu cho dạng cà phê nhà nghèo
này (gồm cả pha vợt lẫn pha phin) được đánh giá là “uống được” hay “uống được lắm”
vào ngày xưa là các quán Cheo Leo, Năm Dưỡng, Phong, quán ông Đặng Ngọc Côn cùng ở khu Bàn Cờ/ Phan Đình Phùng, quán
“lá me” ở đường Nguyễn Du và quán anh Năm trong một ngỏ hẽm đường Gia Long cùng
thuộc quận 1, một quán (quên tên) nằm trên đường Nguyễn Văn Thành cũ, gần chợ
Bà Chiểu…
Và ngày nay, với giá trị của đồng bạc
hiện hành, giao diện cà phê bình dân được hình dung ở mức giá 10,000 – 15,000 đồng
/ly, gồm cả khi bạn uống trong quán cóc hay khi mua về từ những điểm bán coffee
take away ngoài đường phố. Riêng về cà phê vợt, những người Sài Gòn lớn tuổi, nặng
lòng hoài cổ với cà phê vợt chỉ còn có thể nhắc đến quán Cheo Leo cố cựu (ở quận
3), quán ông Thanh ở phía sau khu chợ Thiếc (quận 11) và một quán nào đó nghe
nói ở trước chợ Phú Nhuận, nay đã đóng cửa.
Cũng từ xa xưa, đặc biệt gây ấn tượng
cho dân nghèo-ghiền-cà-phê là những tiệm nước, tiệm hủ tíu bình dân của người
Tàu. Ở những “cơ sở kinh doanh ăn uống” (từ thường dùng của ngành thuế, quản lý
thị trường sau 30-4) ấy, nhiều khi trên bàn, dưới sàn nhà nhớp nháp, dơ bẩn đến
phát khiếp, ngày xưa khi khách vừa cho biết uống gì thì lập tức các chú Ba thường
lớn tiếng hô cho chỗ pha chế phía sau
nghe những tiếng Quảng Đông nghe rất vui, như: xây chừng dách cô (nghĩa: đen nhỏ một ly), tài chừng (ly lớn), dịt phé
(cà phê đen), nại phé (cà phê sữa), sủi phé (cà phê đá). Ngày nay thì rất hiếm
khi được nghe những người phục vụ trong các tiệm, quán trong Chợ Lớn hò, hét
tên món uống như thế mà họ chỉ hỏi khách rồi lặng lẽ ghi nhớ trong đầu hay biên
vào giấy… Cách uống ly cà phê đen hay sữa nóng bốc khói cũng rất ngộ: để làm
nguội ly cà phê cho dễ uống, từng lần một người ta rót cà phê ra cái đĩa lót
tách cà phê, rồi thổi, rồi húp!
Đúng ra, bao đời nay, thân quen đối với
giới bình dân, lao động chân tay, công/tư chức lương thấp và cả đám sinh viên –
học sinh, ở đâu cũng vậy, luôn luôn có những cái quán cà phê ngoài đường, trong
hẽm hay mang những tên gọi giản dị, gọn lõn, dễ nhớ, chẳng hạn như: quán Chị
Ba, quán Anh Sáu, quán Bà Tám, quán Chú
Cón…, thậm chí tên nghe còn bâng quơ, sơ sài hơn nữa, như quán Cây Khế, quán
Cây Ổi, quán Cột Đèn, quán Đường Rầy…
Từ xa xưa, người lao động có thói
quen thức dậy rất sớm để ra đầu ngõ uống cà phê, gồm cả người già lẫn trung
niên và thanh niên. Cả ngày đến đêm, có khi 3-4 lần một ngày như mắc chứng ghiền ra quán, họ sẵn sàng ra những địa
điểm quen thuộc ấy– và thân thương nữa khi chủ quán cho… ghi sổ - khi cần uống
cà phê hay khi muốn rủ rê, hú nhau đi uống nước, xả hơi, bởi cà phê các loại ở
những quán xập xệ này, ngày xưa chỉ vài đồng bạc VNCH một ly, còn hiện nay cũng
chỉ quanh quẩn 10,000 – 15,000 đồng/ly.
Một điều nữa, được mọi người uống nhiều
nhất phải nói là cà phê đá. Trong giới ghiền cà phê nói chung, không phân biệt
giàu nghèo, thường xuyên uống cà phê bất kể ban ngày hay ban đêm, có thể có đến
80 - 85% thích uống cà phê đá, tức cà phê lạnh, cũng bất chấp trời nắng trời
mưa, thời tiết nóng hay lạnh.
Theo nhiều người, căn nguyên làm nên
xu hướng “uống đồ lạnh” quá phổ biến này cũng khá đơn giản, dễ hiểu. Một là, ở
xứ nóng như Việt Nam, người dân uống cái chi lạnh, có nước đá thì uống vào cũng
đã hơn uống nóng. Hai là, ngoài số
nam giới khoái cà phê đá, ngày càng có thêm nhiều phụ nữ thích uống cà phê mà hầu
hết quý bà, quý cô ấy đều chọn cà phê đá, nhất là từ khi dạng fast food tiện lợi,
cà phê pha máy xuất hiện tại VN. Ba là, trên thị trường – nhất là ở các điểm
bán cà phê - giải khát vỉa hè, dã chiến ngoài đường phố, hỏi cà phê đá là có
ngay, còn hỏi cà phê nóng thì hay bị lắc đầu, bởi người bán thường chỉ chuẩn bị,
trữ hàng cho món cà phê đá, vừa gọn, nhẹ vừa dễ bán bởi luôn có đông khách uống.
Cũng nên xếp vào giao diện cà phê
bình dân dạng cà phê đang rất phổ biến ở Việt Nam: cà phê đem về (take away). Các
quán, quầy, xe đẩy, tủ gỗ, thậm chí yên sau xe Honda nhan nhản ngoài đường phố,
đều chỉ bán từ 10,000 đến 15,000 đồng một ly cà phê đen hay sữa tùy khách gọi.
Cùng thuộc giao diện cà phê bình dân
là một loại cà phê không cần mặt bằng mở quán, cũng chẳng cần bàn ghế nhưng giới
trẻ Sài Gòn rất ưa chuộng, đó là cà phê bệt.
Đầu tiên là khoảng năm 2000, đám sinh viên trường ĐH Kiến Trúc và ĐH Kinh Tế TP
thường lủ khủ ngồi bệt trên vỉa hè các
con đường Nguyễn Đình Chiểu, Võ Văn Tần (quận 3) với những ly cà phê nhựa để
luôn trên nền xi măng, giá chỉ 8000 – 10,000 đồng. Sau đó, lai rai ẩn hiện cho
đến ngày nay, dân cà phê bệt – hầu hết
là giới trẻ - chiếm cứ Công viên Thống Nhất và khu vực xung quanh Nhà thờ Đức
Bà Sài Gòn sát bên, đông nhất là vào các ngày chủ nhật, ngày lễ…
(Còn tiếp)
*Đón đọc:
2. Cà Phê Hạng Trung Trung Và Hạng Sang Trọng
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire