Cái hào nhoáng mới không thay đổi được tâm tình của thế hệ ông cha đã đi qua và còn sống mãi trong lòng những người Việt thời trước 1975.
Đố các anh chị biết tại sao?
Các anh chị thử tìm hiểu xem nhé.
Có thể chúng ta tìm được câu trả lời qua bài tản mạn của anh Phạm Nga viết dưới đây.
Caroline Thanh Hương.
tt
TẢN
MẠN VỀ CON ĐƯỜNG ĐẸP NHẤT, SANG NHẤT SÀI GÒN XƯA
1.
Xưa
nay, đường Tự Do (tên hiện naylà Đồng Khởi) ở khu trung tâm Quận 1 Sài Gòn dù chỉ
là một con đường ngắn và hẹp nhưng vẫn được tiếng là con đường đẹp nhất, sang
nhất, đông người nước ngoài nhất thành phố Sài Gòn xa xưa và cũng có thể nói
như thế về quãng thời gian sau tháng 4-75 cho đến nay.
Vừa
qua, trên trang trithucvn.net (*), trong bút ký tựa là “Văn Hóa Không Tên Tạo
Nên Linh Hồn Của Sài Gòn Xưa”, nhà văn Văn Quang đã ghi nhận trên con đường Tự Do đẹp, sang ấy lại có một
chuỗi 3 nhà hàng/quán cà phê là La Pagode, Givral, Brodard đã tỏ lộ cái hồn văn
hóa đầy sức sống tự tại của Sài Gòn xưa.
Văn
Quang kể:
“Nói
đến La Pagode, Givral, Brodard… chắc chắn những người đã từng sống, từng ghé
qua Sài Gòn chưa ai quên. Nhất là những văn nghệ sĩ, nhà báo, dân biểu, thường
ngồi ở đấy làm nơi trao đổi tin tức nghề nghiệp. Còn một số lớn khách du lịch,
sĩ quan, quân nhân, công tư chức làm việc tại “thủ đô miền Nam” và các bạn trẻ
Sài Gòn thập niên 60-75 cũng hay lui tới nơi này.”
Và:
“Ba
nhà hàng ấy là 3 sắc thái riêng biệt làm nên cái trục “văn hóa không tên”, cái
linh hồn của Sài Gòn, khó phai mờ trong ký ức của những người Sài Gòn”
Khi
nói về 3 “đệ nhất” nhà hàng/quán cà phê trên đường Tự Do xưa, nhà văn Văn Quang
đã nêu những nhận xét thật sâu sắc, thấu đáo vào phần hồn văn hóa cố cựu của
Sài Gòn, chứ không bám vào phần vỏ kinh tế bên ngoài của Sài Gòn, mặc dù trải
qua các chế độ khác nhau, thành phố này luôn ở đỉnh cao phồn vinh nhất Việt Nam.
Cũng cách nhận xét ấy đã cho thấy trong giới văn nghệ sĩ đất Sài Gòn cũ, tác giả
cuốn tiểu thuyết ‘Đời Chưa Trang Điểm’ quả
là một đàn anh, một ‘chuyên gia’ về khoản lê la cà phê bia bọt, tán dóc quán xá vỉa hè, trước là giải
trí /sau là lấy thông tin…
2.
Theo
chọn lựa của Văn Quang, được nhắc trước tiên nên nhà hàng La Pagode, nằm ở ngã
tư Tự Do – Lê Thánh Tôn. Tên gọi tếu ‘Cái chùa’ (nghĩa tiếng Việt của từ ‘la pagode’
tiếng Pháp) cũng khá thông dụng.
Nhà
văn Văn Quang kể:
“Trước
hết phải kể đến nhà hàng La Pagode, tôi cho là “cổ kính” nhất. Ngay từ những
năm 1953, khi tôi mới biết taxi là “cái giống gì” (bởi ở miến Bắc hồi đó chưa
có taxi), tôi đã biết La Pagode. Hồi đó Pagode còn bày hàng ghế salon bọc da ra
ngoài hành lang, theo lời ông Nguyên Sa thì nó giống hệt nhiều nhà hàng ở
Paris. Ngồi ở đây thoáng đãng. Khách đến thường chỉ dùng một ly cà phê, ngồi từ
chiều đến tối mịt.”
Đúng
là một nhà hàng “cổ kính” khi từ bàn ghế, màu da bọc ghế cho đến quầy, kệ nội
thất đều có màu chủ đạo là nâu hay đen, rõ hơn là các gam màu tối, cũ kỷ, lâu đời.
Riêng về các mặt vách bằng kính thật dày cho phép khách nhìn ngắm đường phố, điều
hay ho nữa là loại vách này ngăn được phần lớn tiếng động, tiếng xe cộ ồn ào
bên ngoài. Như khi trời mưa lớn, bên ngoài ướt át, lạnh lẽo, sấm chớp rền
vang…, nhưng bên trong quán, nhờ các vách kính dày, khách ngồi nhâm nhi tách cà
phê hay tách trà lipton chanh nóng (món uống rất thường được khách gọi) thì vô
cùng ấm áp, khô ráo, và có ồn ào gì đó là do tiếng tranh cải, cười nói từ các
bàn bên cạnh.
Văn
Quang viết tiếp:
“Khách
hàng của La Pagode hầu hết là nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ. Cứ vào buổi chiều,
sau giờ tan sở là tụ tập lại đây. Tất nhiên cũng ngồi thành nhóm. Những ngày đầu
tôi thường đi cùng Thanh Nam, Thái Thủy, Hoàng Thư và đến đây thường gặp các
anh Nguyên Sa, Trần Thanh Hiệp, Mặc Thu, Cung Trầm Tưởng, Mai Thảo, Phạm Đình
Chương, Tạ Quang Khôi, Viên Linh, Nguyễn Đạt Thịnh, Phạm Huấn, Anh Ngọc, Nhã
Ca, Trần Dạ Từ, Nguyễn Đình Toàn… Quá nhiều, tôi không thể nhớ hết.”
Ngoài
giới văn nghệ sĩ ‘khách quen’ như trên, tất nhiên trong La Pagode còn thường có
một số khách khác, như khách du lịch quốc tế, quân nhân, công tư chức và các bạn
trẻ. Có điều là, như một nhà văn đã ghi nhận, cũng lai rai có hiện tượng ‘làm
dáng trí thức’, như trên tay một số khách vào quán thường lấp ló những đầu sách
– cả nguyên bản lẫn sách dịch - đang hot, đang gây nhiều tranh cải thời ấy, như ‘Hố
Thẳm Của Tư Tưởng’ của Phạm Công Thiện, ‘Tropic Of Cancer’ của Henri Miller,
‘Zen Buddhism’ của D.T.Suzuki, ‘Dịch Hạch’ (tiếng Pháp: La Peste) của Albert Camus…
Hay ít ra cũng là những tạp chí, tuần báo, nguyệt san Anh ngữ, Pháp ngữ thời
danh như Times, Newsweek, L’Express, Salut Les Copains… mà có lẽ người ta vừa
mua ở Book Shop, tiệm chuyên bán sách báo ngoại quốc gần ngã tư Tự Do - Nguyễn Văn Thinh, tức cách La Pagode chừng
400m.
Kế
tiếp là nhà hàng Givral, cũng 2 mặt tiền toàn vách kính, nằm ở ngã tư Tự Do – Lê
Lợi, thuộc hành lang Eden (tiếng Pháp: passage Eden). Từ ‘hành lang’ nghe không
qui mô, không bề thế bằng từ ‘thương xá’ – như thương xá Tax gần đó - nhưng khi phục hiện cái không khí văn hóa phong
phú, đặc sắc của Sài Gòn, Văn Quang đi sâu vào một chi tiết đặc biệt, rằng trong
khu Eden có một hiệu sách nổi tiếng hàng đầu Sài Gòn cũ, không kém cạnh nhà
sách Khai Trí bên đường Lê Lợi chút nào, đó là nhà sách Xuân Thu. Xuân Thu nổi
tiếng về các đầu sách ngoại văn (nhất là sách nghiên cứu văn hóa – văn minh
Pháp và sách giáo khoa chương trình phổ thông trường Pháp) mà giới trí thức,
nhà giáo, sinh viên Sài Gòn thời ấy khi cần là có thể đến lục tìm, hay đặt cho
nhà sách mua dùm từ châu Âu, châu Mỹ.
Hơn
thế, giới ‘chữ nghĩa’ ở Sài Gòn đã
không khỏi ngưỡng mộ khi nhìn lên lầu 2 nhà
sách Xuân Thu, nơi khoa chính trị kinh doanh (Science politique) của đại học Đà
Lạt tổ chức lớp cao học ‘Science-po.’, ngành học nâng cao à la mode nhất của giới
SV đã xong cử nhân một số ngành về khoa học nhân văn tại Việt Nam vào thời từ
1970 trở đi.
Văn
Quang viết:
“Givral
là một địa điểm trung tâm thành phố, rất thuận tiện cho mọi việc, từ hẹn hò,
mua sắm vài thứ, đợi giờ vào rạp chiếu phim, hoặc chỉ đi “bát phố”(… ). Hơn thế,
thương hiệu bánh ngọt Gival rất nổi tiếng, thu hút nhiều khách sành ăn. Mấy bà
đi ngang qua Lê Lợi – Tự Do ghé vào mua vài cái bánh mang về cho chồng con là
chuyện bình thường”.
Cũng
phải, dân Sài Gòn ưa ăn bánh Givral bởi nét tao nhã, tinh tế của nền văn hóa ẩm
thực Pháp đã tồn tại gần 60 năm tại VN. Givral nổi tiếng với dòng bánh tươi,
không dùng chất bảo quản và chất phụ gia độc hại hay không có lợi cho sức khỏe.
Và “cái hậu” tốt đẹp của dòng bánh lành, sạch này là là ‘phiên bản’ sau tháng
4-75 mang tên ‘Công ty Cổ phần Bánh Givral’, khá có tiếng là bánh ngon, tuy giá
cả khá cao chứ không bình dân, với lò sản xuất bánh hiện ở khu công nghiệp Tân
Bình, phường Tây Thạnh, Q. Tân Phú, Tp HCM.
Cuối
cùng là về nhà hàng Brodard, Văn Quang ghi nhận:
“Còn
nhà hàng Brodard nằm ở góc Tự Do – Nguyễn Thiệp, nhìn sang bên kia là vũ trường
Tự Do của ông Cường (…). Ở đây lại đông vui vào những buổi sáng muộn và buổi tối
khi “gà lên chuồng”. Nơi lui tới của những“dân đi chơi đêm”Sài Thành. Những anh
hùng “hảo hớn” như Khê – Thăng Long Xích Thố, anh em ông Kim đầu bạc, Kính
tennis, Chương Marine cũng lui tới ngồi tán chuyện giang hồ. Các “đại gia, tiểu
gia” thời đó không nhiều, chỉ vỏn vẹn một số ông dược sĩ, tu bíp, doanh nhân có
“xế bốn bánh” đủ để chở các em đi ăn đêm.”
Như
thế, thành phần khách đến Brodard có tính chất một đại chúng rất đời thường, nặng
về bề ngoài vật chất. Dân đến đây không khỏi ít nhiều có thái độ khoe mẻ về sự
giàu có, khả năng mua vui, hưởng thụ cuộc đời của mình. So với Givral và La
Pagode - nhất là so với La Pagode, nơi
‘đóng đô’ thường xuyên của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nghệ sĩ trình diễn…
- Brodard có vẻ ít chất văn nghệ, chữ
nghĩa hơn.
Theo
một ông công chức làm việc ở Phòng Thương Mại Sài Gòn (nằm ở phía cuối đường Tự
Do, cách Brodard chừng 300m), từng nhiểu năm thường cùng các đồng nghiệp và gia
đình vào Brodard ăn uống, ngắm phố phường thì với cách trang trí dùng nhiều màu
sáng, nhà hàng này giống một tiệm kem, một tiệm bánh ngọt, một quán giải khát
hơn là một quán cà phê đúng nghĩa giành cho dân ghiền cà phê “chuyên nghiệp”.
Tính chất hiền lành, ngọt ngào – thay vì đắng chát như vị cà phê – càng tỏa lan
trong bầu không khí yên tĩnh của Brodard qua một kiểu phục vụ bánh ngọt rất đặc
biệt. Khách cứ ngồi tại bàn mà lên tiếng hay ra dấu, nhân viên nhà hàng sẽ mang
đến tận bàn một khay lớn bày rất nhiều bánh ngọt, bánh kem kiểu Pháp, như bánh choux,
Polonais, mille feuilles… để khách chọn. Như các cô khách, cậu khách nhí, sau
khi được ba mẹ gật đầu, sẽ sướng rơn khi cứ thoải mái chỉ vào khay, ngay cái
bánh mình thích là bánh sẽ được lấy bỏ vào đĩa nhỏ, dọn ra trước mặt mình…
3.
Ngày
xưa, từ danh từ riêng ‘Catinat’ nguyên thủy do người Pháp dùng đặt tên cho đường
Tự Do, học sinh các trường Tây ở Sài Gòn thời 1960-70 thường kháo nhau động từ chế
‘catinater’, có nghĩa lả ‘dạo chơi đường Catinat” và tương tự là ‘bonarder’,
nghĩa ‘dạo chơi đường Nguyễn Huệ’ bởi tên Tây của đại lộ này là Bonard. Càng tếu
hơn là nếu ‘catinater’ và ‘bonarder’ nhiều
quá, coi chừng bị… ‘déxiquachté’ (hết xí quách!).
Thêm
một từ chế rất thú vị nữa là ‘radio Catinat’, chỉ những thông tin đủ loại phát
ra từ những ‘cư dân’ thường xuyên tụ tập tại La Pagode, Givral và Brodard, gồm giới
văn nghệ sĩ, báo chí và một số chính trị gia. Văn Quang đã phân tích:
“Thật
sự cái nhu cầu chính là đến đây gặp nhau, để… nói dóc, “bình loạn” vài cái tin
văn nghệ, thời sự chính trị cho vui thôi. Cả ba nhà hàng này với những cái “loa
ngầm, loa không ai kiểm chứng” nên có thời người ta gọi những tin tức ấy là
“radio Catinat” (bởi con đường Tự Do, thời Pháp được đặt tên là đường Catinat).
Tuy nhiên cũng có những nguồn tin “bí mật quốc gia” rất chính xác bên cạnh những
nguồn tin chẳng bao giờ là sự thật. Nó cứ nhập nhằng như thế nên “radio
Catinat” chưa chắc đã là “láo toét” như nhiều người kết tội nó”.
Nhìn
chung, ngoài 3 nhà hàng/cà phê La Pagode, Givral và Brodard, đường Tự Do càng
hào nhoáng, đẹp đẽ hơn khi còn có quán Cafetaria Disco với nhạc pop rock mới nhất,
phát bằng discothèque hiện đại nhất thời đó, rồi các phòng trà Tự Do, Maxim’s hoành
tráng và Đêm Màu Hồng diễm ảo, chưa kể nằm 2 bên trụ sở Quốc hội/Hạ nghị viên
là khách sạn Continental Palace với phong cách rất Tây và khách sạn Caravelle cao
nhất nhì Sài Gòn thời 60, cùng khách sạn Majestic (ở cuối đường, nhìn ra bến Bạch
Đằng, sông Sài Gòn), cả ba đều có đại sảnh cực kỳ tráng lệ, sang trọng. Ở nhiều
vị trí dù lộ thiên hay sát bên quầy rượu, khách ngồi ghế mây, ghế bành nhâm nhi
cà phê hay bia lạnh đều có view nhìn ra các góc phố thật đẹp mắt. Riêng ban
đêm, phố Tự Do trở nên lung linh, đẹp rực rỡ với ánh sáng đèn đóm đủ màu,
Còn
vào buổi chiều nào đó, khi có cơn mưa nhỏ, đường Tự Do/Catinat của Sài Gòn chợt
lãng đãng một vẻ đẹp cổ điển, đầy sức quyến rũ, khêu gợi, khiến những ai vốn thích
loại phim chiến tranh - tình cảm - tâm lý không khỏi liên tưởng đến hình ảnh
thủ đô Sài Gòn xưa, cũ trong cuốn phim Mỹ tựa ‘Người Mỹ Trầm Lặng’(The Quiet
American), sản xuất năm 2002, chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của
Graham Greene, nhà văn Anh, viết năm 1951 với bối cảnh cuộc chiến tranh Việt
Nam/Đông Dương…
PHẠM
NGA
(Tháng
2-2019)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire