Khi nói đến thơ xưa, thì tôi tìm thấy những câu thơ đối dưới đây chưa có người đối, mời quý anh chị yêu thơ kỷ thuật thử đối nhé.
Trong một bài khác sẽ post sau về chủ đề câu đối.
Caroline Thanh Hương
1/ - Nam Thông Tiền Bắc Thông Tiền Nam Bắc Thông Tiền Thông Nam Bắc
- Câu đối này một từ hai ý nghĩa, đồng âm đồng nghĩa, quả thực đối lại rất khó khăn.
2/
(Biết mà học không bằng thích
mà học, thích mà học không bằng vui say mà học. - Gs. Minh Chi dịch)
Trúc chi
từ nhị thủ kỳ 1 (Dương liễu thanh thanh giang thuỷ bình)
Dương liễu
thanh thanh giang thuỷ bình,
Văn lang giang thượng đạp ca thanh.
Đông biên nhật xuất tây biên vũ,
Đạo thị vô tình hoàn hữu tình.
Văn lang giang thượng đạp ca thanh.
Đông biên nhật xuất tây biên vũ,
Đạo thị vô tình hoàn hữu tình.
Dịch
nghĩa
Cây dương liễu
xanh xanh, nước sông phẳng lặng
Nghe tiếng chàng hát hò trên sông
Phía đông mặt trời mọc, phía tây thì trời mưa
Bảo rằng không tạnh mà lại tạnh.
Nghe tiếng chàng hát hò trên sông
Phía đông mặt trời mọc, phía tây thì trời mưa
Bảo rằng không tạnh mà lại tạnh.
Bài "Trúc chi từ" này mô phỏng làn điệu dân ca "Trúc chi" vùng Hồ, Tương, khác với "Trúc chi từ" vùng Quỳ Châu.
Dưới đây là vài bản dic̣h của vài tác giả, trong đó có bài của anh Đỗ Quý Bái.
Kính gửi chị Thanh hương và anh chị em trong nhóm Cát Bụi thân mên.
Già nua thơ phú kém xưa rồi !
Xin dịch bài thơ bạn hữu coi :
Nhuận sắc dùm tôi nhờ quỵ vị
Còn hai cấu đối hãy chờ thời
Dương liễu xanh xanh ,nước lặng dòng
Nghe chàng ca hát vẳng trên sông
Phương đông nắng ấm ,Tây mưa gió
Dùng không đồng đổi lấy có đồng ! ((lòng)
LTĐQB-Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Xanh dương liễu, nước sông phẳng lặng
Tiếng chàng hò, nghe vẳng trên sông
Mưa đàng tây, nắng đàng đông
Bảo mưa cũng đúng, trời trong cũng là.
Nước sông lặng
Bờ xanh xanh liễu rủ
Tiếng bổng trầm giọng lơi lả trên sông
Phương tây mưa
Trời lại nắng phương đông
Lời trong sáng…ý lồng điều cợt nhả
Khúc ca Trúc-chi
Liễu xanh, dòng nước yên lành,
Trên sông, giọng hát của anh ngọt ngào.
Tây mưa, đông mặt trời cao,
Nói vô tình, lại biết bao nhiêu tình...
Lưu Vũ Tích
Buớc tưới chuyển hướng
Bước tới tìm kiếm
Lưu Vũ Tích là người Lạc Dương (nay là thành phố
Lạc Dương, tỉnh Hà Nam) [1]. Nguyên quán tổ tiên ông ở Trung Sơn, nay là huyện Định, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc).
Liu Yuxi | |||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tranh miêu tả Lưu Vũ Tích từ Wan Xiao Tang, published in 1743
| |||||||||||||||||||||
Tên bản ngữ | 劉禹錫 | ||||||||||||||||||||
Sinh | 772 Luoyang, Hà Nam, China | ||||||||||||||||||||
Mất | 842 (69–70 tuổi) Luoyang, Henan, China | ||||||||||||||||||||
Nghề nghiệp | Poet, philosopher, essayist | ||||||||||||||||||||
Tác phẩm nổi bật | "The Scholar's Humble Dwelling" | ||||||||||||||||||||
|
Đây là một tên người Trung Quốc; trong đó họ là Liu.
Lưu Vũ Tích (chữ Hán: 劉禹錫, 772-842) tự: Mộng Đắc (夢得); là viên quan và là nhà thơ Trung Quốc thời Trung Đường.
Tiểu sử
19 tuổi, Lưu Vũ Tích đến học ở kinh đô Trường An (nay là Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây).
Năm 21 tuổi, ông thi đỗ Tiến sĩ, sau lại đỗ thêm khoa Bác học hoành từ.
Dưới thời Đường Thuận Tông (ở ngôi: 805), ông cùng với Liễu Tông Nguyên giúp Vương Thúc Văn chấp chính, có đề ra một số biện pháp canh tân. Nhưng không lâu sau, Vương Thúc Văn bị giáng chức, ông cũng bị đưa đi làm Tư mã Lãng Châu (nay là Thường Đức, tỉnh Hồ Nam), bấy giờ ông 33 tuổi.[2]
Chín năm sau (814), Lưu Vũ Tích được triệu về kinh đô. Rồi vì bài thơ làm ở Huyền Đô quán (Trường An) [3], xúc phạm giới cầm quyền, ông lại bị đưa đi làm Thứ sử ở Liên Châu (nay là huyện Liên, tỉnh Quảng Đông). Về sau, ông còn làm Thứ sử ở Quỳ Châu và Hòa Châu, có nghĩa là còn bị đày nhiều năm nữa.
Những năm cuối đời, Lưu Vũ Tích về ở Lạc Dương, làm chức quan nhàn tản là Thái tử tân khách (tức làm tân khách của Thái tử) [4]. Đến đời Đường Vũ Tông (ở ngôi: 840-846), ông được phong làm Kiểm hiệu Lễ bộ Thượng thư.
Năm 842, Lưu Vũ Tích mất, thọ 70 tuổi.
Tác phẩm thi ca của ông có Lưu Tân Khách tập, gồm 40 quyển.[5]
Sự nghiệp văn chương
Có hoài bão lớn, lại phải sống phiêu bạt nhiều năm, Lưu Vũ Tích sinh ra căm phẫn xã hội bất công. Vì vậy, ông làm khá nhiều bài thơ bộc lộ nỗi phẫn uất trong lòng, hoặc lấy cớ vịnh sử để tỏ chí bất khuất, hoặc lấy cớ vịnh vật để chỉ trích nền chính trị thối nát đương thời. Các bài như "Hôn kính từ" (Bài từ kính tối), "Dưỡng chí từ" (Bài từ nuôi chim cắt), "Tụ văn dao" (Khúc ca dao tụ đàn muỗi), "Độc Trương Khúc Giang tập tác" (Cảm tác khi đọc tập thơ Trương Khúc Giang),...đều bao hàm những điều ấy.Thơ hoài cổ của ông cũng rất được tán thưởng, vì chúng đều chan chứa tình cảm ai oán bi thương. Nổi bật có các bài "Ô Y hạng" (Ngõ Ô y), "Tây Tái sơn hoài cổ" (Nghĩ lại chuyện xưa ở núi Tây Tái), "Kim lăng hoài cổ" (Nghĩ lại chuyện xưa ở Kim Lăng), "Thục tiên chủ miếu" (Miếu Thục tiên chủ),...
Mặt khác, vì từng sống lâu ở vùng sông Sở núi Ba [6], khiến ông sinh lòng yêu mến ca dao địa phương. Tiếp nối truyền thống học tập dân ca của Khuất Nguyên, ông làm ra chín thiên "Trúc chi từ" (theo làn điệu dân ca "Trúc chi từ" ở vùng Quỳ Châu) và chín bài từ theo điệu "Lãng đào sa"...Đây là những tác phẩm mang phong cách mới do ông hấp thu, dung hòa những cái hay cái đẹp của dân ca mà thành.
Ngoài thơ và từ, ông còn viết ba thiên "Thiên luận" (Bàn về trời, viết tiếp theo "Thiên thuyết" [Nói về trời] của Liễu Tông Nguyên), trình bày sâu sắc thêm tư tưởng vô thần. Do vậy, ông được xem là "nhà tư tưởng duy vật thô phác đời Đường" [7].
Nhìn chung, thơ ca của Lưu Vũ Tích thường trong trẻo, hùng hồn, tiết tấu khá hài hòa. Đương thời, ông được sánh ngang với Bạch Cư Dị (người đời gọi chung là Lưu-Bạch), còn Bạch Cư Dị thì gọi ông là "thi hào" [8].
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire